Quan điểm của Đại tướng về văn hóa nghệ thuật, thể hiện trong hồi ký và qua lời kể của văn nghệ sĩ, trí thức
Trong Hồi ký, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Với nền văn hóa mới, văn nghệ sĩ trở thành chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn học nghệ thuật, trực tiếp góp phần vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do...” Lời khẳng định này không chỉ đề cao vai trò của văn nghệ sĩ mà còn cho thấy một chiến lược tư tưởng sâu sắc. Trong hoàn cảnh gian khó, với những phương tiện eo hẹp như báo tường, báo in đá, truyện in trên giấy giang hay nhạc chép tay, văn nghệ kháng chiến vẫn lan tỏa sức mạnh tinh thần trên mọi mặt trận. Qua đó, Đại tướng nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa trong việc nuôi dưỡng ý chí chiến đấu, đóng góp vào thắng lợi chung của dân tộc.
Những trang hồi ký của Đại tướng không chỉ ghi lại những sự kiện lịch sử mà còn khắc họa những khoảnh khắc đáng nhớ về sự gắn kết giữa văn nghệ và chiến tranh. Trong một trận đánh, ông kể: “Tiểu đoàn trưởng hạ lệnh nổi trống cho bộ đội xung phong. Nhà văn Nguyễn Tuân cùng ra trận với đơn vị, đứng cạnh tiểu đoàn trưởng, vội giành lấy dùi để đánh trống.” Hình ảnh nhà văn Nguyễn Tuân, một người vốn nổi danh với sự uyên bác và tính cách nghệ sĩ, nay hóa thân thành một chiến sĩ thực thụ, thể hiện sự dấn thân không ngần ngại của văn nghệ sĩ thời chiến. Đây chính là biểu tượng cho sự hòa quyện giữa lý tưởng nghệ thuật và lý tưởng cách mạng.
Đại tướng cũng dành những tình cảm sâu sắc cho các tác phẩm văn học, như việc ông trích dẫn bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng – một tác phẩm từng bị phê phán nhưng lại phản ánh chân thực tâm hồn người lính. Những câu thơ như: “Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc/Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ miêu tả sự khắc nghiệt của chiến trường mà còn toát lên tinh thần bất khuất và vẻ đẹp nội tâm của những con người hy sinh cho tổ quốc. Qua việc trích dẫn, Đại tướng khẳng định giá trị trường tồn của nghệ thuật và sự đồng cảm của ông với nỗi niềm, khát vọng của người lính.
Không chỉ yêu thơ ca, Đại tướng còn để lại ấn tượng bởi sự trân trọng âm nhạc. Trong chiến dịch Đông Khê năm 1950, giữa những đêm mệt mỏi, ông đã ngỡ ngàng khi lắng nghe tiếng đàn vẳng ra từ một bản nhỏ bên đường: “Những mệt mỏi tiêu tan, đầu óc trở nên trong suốt... Cũng từ đó tôi yêu âm nhạc.” Hành động dừng mọi liên lạc để cùng đồng đội thưởng thức âm nhạc giữa chiến dịch không chỉ thể hiện sự nhân văn mà còn là minh chứng cho khả năng tìm thấy cái đẹp trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất.
Ở mặt trận Điện Biên Phủ, Đại tướng cũng không quên ghi lại vẻ đẹp của thiên nhiên và con người qua lăng kính đầy chất thơ: “Cánh đồng Mường Thanh chạy dài tít tắp đến chân dãy núi phía nam... Những chiếc dù màu sắc rất tươi như nở đầy hoa.” Những hình ảnh này cho thấy tâm hồn nhạy cảm của một người không chỉ làm nên lịch sử mà còn thổi hồn vào lịch sử, biến những chiến thắng oai hùng trở thành ký ức giàu chất nhân văn.
Qua những câu chuyện và cảm nhận được ghi lại trong hồi ký, có thể thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn trân trọng sự đồng hành của văn nghệ sĩ trên con đường cách mạng. Với ông, văn nghệ không chỉ là phương tiện truyền cảm hứng mà còn là một sức mạnh tinh thần quan trọng, làm giàu thêm ý nghĩa của những hy sinh gian khổ. Mối quan hệ giữa Đại tướng và văn nghệ sĩ không chỉ đơn thuần là sự đồng cảm mà còn là sự hòa quyện lý tưởng, tạo nên một sức mạnh tổng hợp – sức mạnh của lòng yêu nước, của nghệ thuật và tinh thần cách mạng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc mà còn là một con người sâu sắc, luôn trân trọng giá trị của văn hóa và nghệ thuật. Với ông, văn nghệ sĩ không chỉ là những người kể chuyện của dân tộc mà còn là nguồn động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu và dựng xây đất nước. Mối quan hệ của Đại tướng với giới văn nghệ sĩ không dừng lại ở sự đồng cảm mà còn gắn bó qua những hành động chân thành, giản dị nhưng đầy ý nghĩa.
Đầu thập niên 1990, một trong những lần gặp gỡ đầu tiên của Đại tướng với giới văn nghệ sĩ diễn ra tại Hội thảo khoa học về Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp UNESCO tôn vinh Người. Tại đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ trì hội thảo, và sau khi nghe bài tham luận của một nhà nghiên cứu sân khấu trích dẫn ý của Giáo sư Schumacher người Đức, ông đã bước đến hỏi: "Đồng chí lấy đâu ra tư liệu này? Có thể chuyển cho tôi được không?"
Đây không chỉ là một câu hỏi đơn thuần, mà còn cho thấy sự tôn trọng của Đại tướng đối với giá trị học thuật và văn hóa, cũng như sự trân trọng đối với những góc nhìn từ bạn bè quốc tế.
Những dịp gặp gỡ sau đó càng làm rõ mối gắn bó của Đại tướng với các văn nghệ sĩ. Năm 1994, nhân kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng tham dự buổi biểu diễn vở chèo Mối tình Điện Biên. Mặc dù trời nóng bức, ông vẫn kiên nhẫn ngồi xem từ đầu đến cuối, sau đó không ngần ngại chia sẻ nhận xét: "Tác phẩm mới chỉ đề cập đến không khí sau chiến thắng, nhưng chưa thực sự mang chất chèo, có phần gần với kịch nói hơn."
Lời nhận xét thẳng thắn, đầy trách nhiệm này khiến các nghệ sĩ suy nghĩ sâu sắc về cách làm sao để phản ánh chân thực hơn chiến dịch lịch sử và giữ gìn bản sắc nghệ thuật chèo.
Tháng 5/2004, Đại tướng tiếp tục thể hiện sự quan tâm của mình khi đồng ý gặp gỡ các văn nghệ sĩ trước hội thảo "Văn học nghệ thuật với Điện Biên Phủ." Dù bận rộn, ông lắng nghe kỹ lưỡng những báo cáo và đánh giá cao sự cống hiến của các nghệ sĩ. Gặp NSND Chu Thúy Quỳnh – người từng biểu diễn tại mặt trận Điện Biên – ông không chỉ nhớ ngay mà còn hồi tưởng cả những điệu múa chị từng thể hiện. Sự trân trọng và trí nhớ tinh tế của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người.
Tình cảm của Đại tướng với văn nghệ sĩ còn được thể hiện qua những câu chuyện đời thường. Năm 1993, Nhà hát Tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh (Đà Nẵng) biểu diễn hai trích đoạn đặc sắc phục vụ Đại tướng. Sau buổi diễn, ông cùng phu nhân bước lên sân khấu, bắt tay từng nghệ sĩ và nhạc công, đồng thời dành những lời khuyên chân thành: "Mình nghĩ nếu làm được cái gì khác mà hay hơn cho tuồng thì nên làm. Còn cái gì đã hay rồi, đã hoàn thiện, trác tuyệt thì phải bằng mọi cách giữ nguyên vẹn."
Lời căn dặn này không chỉ là sự động viên, mà còn là kim chỉ nam cho sự bảo tồn nghệ thuật truyền thống trong thời đại mới.
Đại tướng luôn coi trọng việc nuôi dưỡng văn hóa dân tộc. Ông từng nói: "Trên thế giới, không ai nghĩ đến chuyện cải tiến nhạc Chopin vì nó đã hay rồi. Tuồng ta cũng vậy, cái gì hay thì phải cố giữ nguyên vẹn lại cho con cháu."
Từ câu chuyện nhỏ này, có thể thấy ông không chỉ thấu hiểu mà còn biết cách khơi nguồn cảm hứng cho những người làm nghệ thuật trong việc bảo tồn và phát huy tinh hoa dân tộc.
Trong trái tim của giới văn nghệ sĩ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một danh tướng huyền thoại mà còn là một nhân cách lớn, một người bạn đồng hành chân tình của văn hóa và nghệ thuật Việt Nam. Những kỷ niệm và lời căn dặn của ông vẫn là nguồn động lực to lớn, thôi thúc các nghệ sĩ tiếp tục sáng tạo và cống hiến vì một nền văn hóa đậm đà bản sắc, trường tồn với thời gian.
Nguồn cảm hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, với tầm vóc lịch sử và phong thái đĩnh đạc, không chỉ là vị chỉ huy xuất sắc của những chiến thắng hào hùng như Điện Biên Phủ, mà còn là biểu tượng sống động, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho nhiều thế hệ văn nghệ sĩ.
Với phong thái uy nghi nhưng gần gũi, sự nhạy bén và trái tim đầy nhiệt huyết, Đại tướng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng những người từng gặp gỡ, từ các nhà văn, nhà thơ lớn cho đến những nghệ sĩ trẻ. Hình ảnh của ông, một vị tướng kiệt xuất đồng thời là một tâm hồn lớn, đã trở thành chất liệu quý giá để các văn nghệ sĩ sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị về ông.
Sự hiện diện của Đại tướng là biểu tượng của sự kết nối không ranh giới giữa lãnh đạo, nghệ thuật, và nhân dân. Chính sự trân trọng, thấu hiểu đối với nghệ thuật và con người của ông đã khơi nguồn cảm hứng bất tận, giúp các văn nghệ sĩ sáng tạo nên những tác phẩm không chỉ ca ngợi chiến công mà còn tôn vinh phẩm cách và tình người.
Những câu chuyện về Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là dấu ấn đặc biệt trong văn hóa Việt Nam, làm giàu thêm bức tranh lịch sử và nghệ thuật, tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ sau.
Trong văn học, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một hình tượng tiêu biểu được nhiều nhà thơ, nhà văn ca ngợi. Những chiến công lẫy lừng của ông trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã được khắc họa rõ nét qua nhiều tác phẩm thi ca. Nhà thơ Tố Hữu, một trong những nhà thơ lớn của nền văn học cách mạng Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong bài thơ "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" (1954), Tố Hữu gắn hình ảnh Đại tướng với chiến thắng chấn động địa cầu. Những câu thơ như: “Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp/Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp” khắc họa tài năng và vai trò của Đại tướng trong chiến dịch lịch sử. Bên cạnh Tố Hữu, nhiều nhà thơ khác như Chế Lan Viên, Xuân Diệu cũng đã viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khắc họa hình ảnh ông không chỉ như một vị tướng mà còn như một người anh hùng dân tộc. Những tác phẩm thi ca này không chỉ là lời ca tụng mà còn là sự ghi nhận và tôn vinh những đóng góp to lớn của ông đối với đất nước.
Chế Lan Viên trong bài thơ "Người đi tìm hình của nước" cũng đã nhắc đến Võ Nguyên Giáp với sự kính trọng: ”Bác bảo đi, Giáp bảo đánh, không thể khác,/Điện Biên, thành thắng lợi vĩ đại.”
Năm 1994, nhà thơ Anh Ngọc viết bài “Vị tướng già”, thể hiện chân dung Đại tướng qua sự đan xen giữa vẻ huyền thoại và đời thường: “Một chân ông đã đặt vào lịch sử/Một chân còn vương vấn với mùa thu”.
Khi Đại tướng qua đời, tập thơ “Tiễn Người vào bất tử” (2013) tập hợp 103 bài thơ từ khắp cả nước, thể hiện tình yêu thương và lòng kính trọng của nhân dân. Tập thơ là nén tâm nhang gửi đến một vị tướng huyền thoại.
Hai bản trường ca về Đại tướng được biết đến là “Người Anh cả của toàn quân” (Hoàng Bình Trọng, 2009) và “Đường tới Điện Biên Phủ” (Nguyễn Hưng Hải, 2018). Trường ca của Hoàng Bình Trọng tôn vinh Đại tướng như một nguồn sáng lan tỏa, không riêng biệt mà hòa mình vào sức mạnh toàn quân: "Anh là châu ngọc và muốn tất cả lũ đàn em đều sáng trong như ngọc."
Nguyễn Hưng Hải nhấn mạnh vai trò lịch sử của Đại tướng: “Tướng Giáp cầm quân có lịch sử đi cùng”.
Hai cuốn tiểu thuyết tiêu biểu về Đại tướng là “Không phải huyền thoại” (Hữu Mai, 2007) và “Đường về Thăng Long” (Nguyễn Thế Quang, 2019).
Hữu Mai tái hiện cuộc đời và những đêm trăn trở của Đại tướng trước từng trận đánh, đặc biệt tại Điện Biên Phủ, làm nổi bật phong cách chỉ huy độc đáo: từ niềm tin vào nhân dân đến khát vọng giảm thiểu hy sinh.
Nguyễn Thế Quang tiếp cận Đại tướng trên phương diện một nhà trí thức yêu nước, thông tuệ và sâu sắc trong ngoại giao. Những trang viết về cuộc đời gia đình của Đại tướng, tình cảm với người vợ đầu Nguyễn Thị Quang Thái, tạo nên hình ảnh gần gũi, giàu cảm xúc.
Dù khác biệt trong cách thể hiện, cả hai tiểu thuyết đều làm nổi bật mối quan hệ đặc biệt giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hồ Chí Minh – sự kính trọng, tin tưởng và tình cảm chân thành giữa hai con người kiệt xuất, biểu tượng cách mạng Việt Nam.
Trong âm nhạc, sau hình tượng Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có lẽ là nhân vật được các nhạc sĩ ca ngợi và đưa vào tác phẩm nhiều nhất. Không hề có cuộc vận động sáng tác nhưng đã có đến hơn một trăm tác phẩm âm nhạc (tính ở thời điểm 2017) viết về Đại tướng, cho thấy Đại tướng là nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận cho các nhạc sĩ. Chắc chắn qua từng năm tháng, kho tàng ấy sẽ không ngừng được bồi đắp, càng đồ sộ đồ sộ và có đóng góp xứng đáng cho nền âm nhạc nước nhà.
Lần đầu tiên, một tuyển tập âm nhạc về Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người Anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam – đã được xuất bản với tên gọi Vị tướng của lòng dân. Tuyển tập gồm 99 tác phẩm, bao gồm 91 ca khúc và 8 bản hợp xướng của 84 tác giả, được PGS, TS, nhạc sĩ Lân Cường tuyển chọn từ 127 tác phẩm. Đây là món quà trân quý từ giới âm nhạc gửi đến vị Đại tướng được cả dân tộc yêu mến và kính trọng.
Âm hưởng chính của tuyển tập là lòng biết ơn, tự hào, và tôn vinh phẩm chất giản dị, gần gũi của Đại tướng. Từ những bài hát ca ngợi chiến công oai hùng như Tự hào thay Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Nguyễn Gia Hưng), đến những khúc nhạc khắc họa tình cảm gắn bó với nhân dân như Có một khu rừng như thế (Doãn Nho), tuyển tập còn ghi dấu sự xúc động sâu sắc khi Đại tướng qua đời: Thế là… Đại tướng đã ra đi, cả đất nước đau thương nghiêng mình kính cẩn… (Dương Trọng Thành, Vi Sư Đường).
Điểm đặc biệt của tuyển tập là không có bất kỳ cuộc vận động hay đặt hàng nào, nhưng vẫn thu hút hàng trăm sáng tác chất lượng từ các nhạc sĩ chuyên và không chuyên. Một số tác giả gửi đến cả tập tác phẩm, như Hồ Hoàng với 20 bài hay Hoài Tố Hạnh với 22 ca khúc. Tuyển tập còn kèm theo 54 ca khúc được thu âm và một phụ lục gồm 76 bức ảnh tư liệu giàu tính nhân văn về Đại tướng.
Như lời PGS, TS, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân: Vị tướng của lòng dân chính là tình cảm sâu sắc và lòng kính yêu của giới âm nhạc dành cho vị Tổng Tư lệnh đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Hình tượng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được phản ánh sâu sắc trong nhiều ca khúc cách mạng. Những bài hát ca ngợi chiến công và đức tính cao quý của ông đã trở thành một phần không thể thiếu trong kho tàng âm nhạc cách mạng Việt Nam. Nhạc sĩ Văn Cao, người được mệnh danh là "cha đẻ của âm nhạc cách mạng Việt Nam", đã sáng tác nhiều ca khúc ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài hát "Ca ngợi Hồ Chủ Tịch" không chỉ tôn vinh Bác Hồ mà còn nhắc đến chiến thắng Điện Biên Phủ và công lao của Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Người là Hồ Chí Minh
Đã đem lại mùa xuân về trên đất này
Người là Võ Nguyên Giáp
Vang lừng chiến công Điện Biên.
Không chỉ Văn Cao, nhiều nhạc sĩ khác như Phạm Tuyên, Hoàng Vân cũng đã sáng tác những bài hát ca ngợi Đại tướng và các chiến thắng lớn của ông. Bài hát "Bài ca Điện Biên" của Phạm Tuyên là một trong những ca khúc tiêu biểu thể hiện lòng kính trọng đối với ông:
Trên mảnh đất này, Điện Biên xưa rực lửa,
Đỉnh cao chiến thắng, ta hát vang bài ca.
Phạm Tuyên đã sáng tác bài hát này vào năm 1984 nhân kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Bài hát không chỉ tôn vinh chiến thắng lịch sử mà còn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người chỉ huy xuất sắc của trận đánh.
Bản hợp xướng “Có một khu rừng như thế” của Đại tá, nhạc sĩ Doãn Nho có thể xem là sáng tác đầu tiên viết về Đại tướng. Là người lính và đã có nhiều dịp gặp gỡ Đại tướng, nhạc sĩ Doãn Nho có điều kiện để hiểu Đại tướng một cách sâu sắc. Tuy nhiên, viết về Người quả thật là điều không dễ. Theo ông chia sẻ: “Đại tướng là người văn - võ song toàn, trong văn có võ, trong võ có văn. Viết để toát lên được những phẩm chất cao quý ấy là rất khó”. Thông thường, những ca khúc quân đội sẽ mang nhịp hành khúc nhưng ở bản hợp xướng này không như vậy, bởi nhân vật là vị lãnh đạo quân đội cao cấp nhất, người được triệu triệu người Việt tôn thờ, kính trọng, được bạn bè quốc tế gọi là “ngọn núi lửa phủ đầy tuyết”. Tác giả “Tiến bước dưới quân kỳ” phải đắn đo, trăn trở suốt mấy chục năm mới có thể hoàn thành. Một điều may mắn hơn nữa là bản hợp xướng đã được Đại tướng lắng nghe vào dịp sinh nhật lần thứ 90 và cũng đã vang lên ở Nhà hát Lớn Hà Nội trong đêm hòa nhạc “Tổ quốc ta” chào mừng Ngày Âm nhạc Việt Nam lần thứ 4, ngày 3-9-2013.
Cũng ra đời ngay trong thời gian Đại tướng còn sống, có một số tác phẩm nổi bật, như: “Hạt cát ấy, bông hoa ấy” (Văn Chừng), “Noi gương anh Cả toàn quân” (Đào Sơn), “Vị tướng già bên cây trầm hương” (Phạm Huy Thanh), “Hát về người Đại tướng của nhân dân” (Lê Gia Hiếu), “Đại tướng của chúng ta” (Nguyễn Lân Hùng)… Vốn là người lính trong Đoàn Văn công Pháo binh Nam bộ, nhạc sĩ Đào Sơn đã khắc họa hình tượng Đại tướng như người anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam dưới quân kỳ, đằng sau là đội quân khí thế của Bộ đội Cụ Hồ qua ca khúc “Noi gương anh Cả toàn quân”. Nhân dịp sinh nhật lần thứ 100, Đại tướng cũng được nghe ca khúc này trên giường bệnh qua tiếng hát của NSND Trần Hiếu.
Mùa thu năm 2013, khi Đại tướng về cõi vĩnh hằng, nhân dân cả nước đau xót, tiếc thương, trái tim của giới âm nhạc quặn thắt cùng hòa nhịp với lòng dân và một loạt tác phẩm đã ra đời ngay sau ngày đau thương đó. Có thể kể đến một số tác phẩm, như: “Một con người bình dị đã ra đi” (nhạc Phạm Minh Tuấn, thơ Nguyễn Trọng Tạo), “Người lính ấy” (nhạc Lư Nhất Vũ, thơ Hoàng Vũ Thuật), “Huyền thoại một vị tướng” (Trương Quang Lục), “Huyền thoại Võ tướng” (Đoàn Bổng), “Đại tướng” (Nguyễn Văn Hiên), “Còn mãi với mùa thu” (nhạc Quỳnh Hợp, thơ Anh Ngọc), “Vị tướng trong lòng dân” (Lê Vinh Phúc), “Võ Nguyên Giáp, tên Người ngời sáng niềm tin” (Bùi Anh Tôn), “Tiếng đàn” (An Thuyên)…
Khác với những ca khúc cùng đề tài, Thiếu tướng, nhạc sĩ An Thuyên đã sáng tác ca khúc “Tiếng đàn” lấy cảm hứng từ một chi tiết nhỏ, một góc khuất trong đời sống của người anh hùng vĩ đại - thường chơi đàn piano vào những giây phút yên bình. Lúc sinh thời, Đại tướng là người yêu văn nghệ nói chung, âm nhạc nói riêng và một trong những khoảnh khắc chơi đàn của Người đã được ống kính của Đại tá, Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Hồng lưu giữ được.
Giới thiệu những ca khúc về Đại tướng, cần nhắc đến nhạc sĩ Nguyễn Lân Cường, người đã dày công tuyển tập và biên soạn tập sách âm nhạc đầu tiên và duy nhất (cho đến thời điểm này) về Đại tướng, đồng thời còn là tác giả của ca khúc “Vị tướng của lòng dân”. Trong rất nhiều mỹ từ mà mọi người gọi Đại tướng thì có lẽ “Vị tướng của lòng dân” là cụm từ mà nhiều người dùng nhất và cũng là đầy đủ nhất. Là người may mắn 4 lần gặp Đại tướng, nhạc sĩ Nguyễn Lân Cường đã dành 2 đêm ròng để sáng tác ca khúc này và vị tướng của lòng dân được khắc họa đậm nét qua hình ảnh: “Tôi bước đi giữa dòng người đêm ấy, lặng lẽ âm thầm/ Tôi đã như không còn nước mắt để khóc như các mẹ các em…”.
Ngoài các nhạc sĩ lớn tuổi từng có cơ hội gặp gỡ Đại tướng, nhiều nhạc sĩ trẻ cũng sáng tác về Người dựa trên những tư liệu được đọc, xem trên sách báo và các phương tiện truyền thông. Trong thời gian diễn ra lễ tang Đại tướng, khi đang huấn luyện quân sự ở Hòa Lạc, Đại úy, nhạc sĩ 8X Dương Trọng Thành (Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội) đã sáng tác ca khúc “Đại tướng - Người sống mãi với non sông” (thơ Vi Sư Đường). May mắn hơn, trước khi Đại tướng qua đời khoảng hơn 1 tháng, anh có dịp đến nhà số 30 Hoàng Diệu, từ đó hiểu hơn về cuộc sống đời thường của vị tướng huyền thoại.
Đặc biệt, ca khúc mang giai điệu hò khoan Quảng Bình “Đất mẹ ngày về” do NSƯT Phạm Phương Thảo sáng tác tỏ lòng tiếc thương Đại tướng lại chính là ca khúc đầu tay của cô. Cái duyên này đã mở ra tiềm năng sáng tác của nữ ca sĩ xứ Nghệ.
Kể từ năm 2017, khi tập sách nhạc “Vị tướng của lòng dân” ra đời, nhiều sáng tác về Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã xuất hiện, nhất là mỗi dịp mùa thu về, mùa gắn liền với Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Hướng đến kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Người, Đại úy, nhạc sĩ Lê Đức Trí (Đội trưởng Đội Tuyên truyền Văn hóa, Bộ đội Biên phòng Quảng Bình) sáng tác ca khúc “Bất tử” rất được yêu thích. Thực ra, bài thơ “Bất tử” đã ra đời cách đây 8 năm, khi Đại tướng qua đời, do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo sáng tác. Cũng giống nhạc sĩ Nguyễn Lân Cường, ông đã tuyển, biên soạn tập thơ “Tiễn Người vào bất tử” (NXB Thông tin và Truyền thông), gồm 103 bài thơ bằng đúng tuổi đời của Đại tướng, ra mắt vào dịp 49 ngày mất của Người.
Nhạc sĩ Lê Đức Trí cho biết, lực lượng Bộ đội Biên phòng đã vinh dự được canh giữ giấc ngủ ngàn thu của Đại tướng khi Người về với đất mẹ, vì thế bài hát “Bất tử” không chỉ là nỗi lòng của cá nhân anh mà còn của những người lính Biên phòng Quảng Bình. Theo anh, bài thơ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo mới nghe thì khó hiểu nhưng càng đọc càng thấm sâu khi nhớ về công lao to lớn của Đại tướng trong 2 cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Còn Thiếu tá, ca sĩ Viết Danh (Nhà hát Ca múa nhạc Quân đội) – người thể hiện ca khúc này – lại chính là người con của mảnh đất Quảng Bình. Anh cảm nhận đây là ca khúc sâu lắng nhưng mạnh mẽ, hào hùng, rất hợp với “chất” của mình và đã hát bằng cả tấm lòng, sự trân trọng và thăng hoa nhất.
Góp phần quan trọng để đưa các tác tác phẩm âm nhạc về Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào đời sống, có vai trò của các ca sĩ. Từ đơn ca, tốp ca đến đồng ca, hợp xướng, các ca sĩ đã thể hiện thành công những bài hát về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, góp phần lan tỏa tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc. Những ca khúc này trở thành nguồn động viên to lớn cho quân và dân Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh và tiếp tục được yêu thích trong lòng người dân đến ngày nay.
Trong Mỹ thuật, qua nhiều thể loại và chất liệu khác nhau như tranh, tượng, điêu khắc và tranh cổ động, các nghệ sĩ đã nỗ lực tái hiện chân thực và sâu sắc hình ảnh một vị tướng kiệt xuất, người anh hùng dân tộc được cả thế giới kính trọng. Không chỉ tập trung vào các yếu tố lịch sử và quân sự, các tác phẩm còn khắc họa phong thái gần gũi, nhân hậu và tài năng xuất chúng của Đại tướng. Với sự sáng tạo và tâm huyết, các nghệ sĩ không chỉ làm phong phú thêm diện mạo nghệ thuật nước nhà mà còn góp phần bảo tồn, lan tỏa giá trị lịch sử và nhân cách vĩ đại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến với các thế hệ mai sau.
Với tình cảm sâu sắc và sự ngưỡng vọng tôn kính, các tác giả mỹ thuật Quảng Bình đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung tư tưởng và thẩm mỹ. Thông qua nguồn tư liệu phong phú, các nghệ sĩ đã nghiên cứu và xây dựng hình tượng Đại tướng với cấu trúc tác phẩm phù hợp để biểu đạt thần thái, tác phong và tầm vóc của một vị tướng được cả thế giới ngưỡng mộ, một vị tướng “văn võ toàn tài”. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra thử thách lớn trong việc thể hiện tinh thần và tài năng, trí tuệ, nhân cách lớn lao của Đại tướng. Thần thái nụ cười và ánh mắt của Đại tướng đã trở thành biểu tượng mà mỗi người Việt Nam đều trân trọng và khắc ghi.
Tiêu biểu là tác phẩm “Lừng lẫy năm châu” của nhà điêu khắc Lê Ngọc Thái, sáng tác bằng chất liệu gò đồng. Tác giả đã thể hiện hình tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp với chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Không gian đồng hiện được khai thác khéo léo, với trọng tâm là hình tượng Đại tướng nắm tay thể hiện quyết tâm và sức mạnh của người cầm quân. Hình ảnh các chiến sĩ phất cờ chiến thắng hòa quyện cùng bố cục chặt chẽ, tạo khối sinh động đã làm nổi bật chủ đề tác phẩm.
Nhà điêu khắc trẻ Võ Tuấn Hải, từ những năm học phổ thông, đã bắt đầu tìm hiểu và làm tượng về Đại tướng bằng đất sét, xi măng, dù chưa qua đào tạo chuyên môn. Sau khi được đào tạo bài bản, anh tiếp tục sáng tác nhiều tác phẩm có chiều sâu và chất lượng, đặc tả thần thái giản dị, gần gũi nhưng uy nghiêm của Đại tướng. Tác phẩm “Đại tướng Võ Nguyên Giáp” thể hiện hình tượng Đại tướng tay cầm sách, phong thái ung dung, bằng thủ pháp tả thực với chất liệu xi măng phủ nhũ đồng, hay “Chân dung” bằng chất liệu thạch cao, tái hiện gương mặt cương nghị, ánh mắt sáng ngời.
Họa sĩ Nguyễn Thành Trung đã thành công với thể loại đồ họa, tiêu biểu là tác phẩm “Đại tướng Võ Nguyên Giáp với nhân dân Quảng Bình” bằng chất liệu khắc gỗ. Hình tượng Đại tướng được lồng ghép hài hòa cùng những giá trị văn hóa, con người Quảng Bình như Quảng Bình Quan, hình ảnh Mẹ Suốt. Sử dụng ngôn ngữ tối giản, mảng nét chắt lọc, tác phẩm tôn vinh hình tượng Đại tướng nổi bật và để lại ấn tượng sâu sắc.
Họa sĩ Nguyễn Lương Sáng đã sáng tác tác phẩm "Quyết định lịch sử" vào năm 2013 khi hay tin Đại tướng qua đời. Tác phẩm tái hiện hình ảnh Đại tướng trong phút quyết định lịch sử của chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngoài ra, ông còn có các tác phẩm như “Rạng danh quê hương”, “Cuộc đời”, “Nỗi nhớ tháng tư”, trong đó “Đại tướng với Quảng Bình” được đăng trên tạp chí ChưYangSin và bình chọn là tác phẩm ấn tượng năm 2021.
Thể loại tranh cổ động cũng góp phần làm nổi bật hình tượng Đại tướng với các tác phẩm của họa sĩ Trần Công Thoan như “Dĩ công vi thượng”, “Ghi nhớ lời Bác” hay họa sĩ Lê Thuận Long với “Đại tướng Võ Nguyên Giáp với quê hương Lệ Thủy”.
Ngày 26/5/2015, tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, triển lãm “Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Những phút giây đời thường với hội họa” đã trưng bày 40 tác phẩm ký họa và 8 bức chân dung sơn dầu về Đại tướng của nữ họa sĩ Văn Dương Thành. Với niềm tôn kính, bà đã ghi lại thần thái, phong cách của Đại tướng qua những lần gặp gỡ, từ nụ cười, ánh mắt đến vầng trán rộng mang nét cương quyết, thông thái.
Năm 2014, nhân kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, triển lãm "Điện Biên Phủ - Đại tướng-Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp qua các tác phẩm nghệ thuật" đã giới thiệu nhiều tác phẩm mỹ thuật lần đầu công bố. Nổi bật là các tác phẩm chân dung Đại tướng bằng đồng mạ vàng, tranh sơn dầu, sơn mài và các vật phẩm độc đáo như tác phẩm “Tự hào Việt Nam” từ vỏ đạn pháo 105mm.
Họa sĩ Nguyễn Quốc Vượng cũng gây ấn tượng với tác phẩm “Vị tướng vì hòa bình”, sáng tạo từ 1.000 vỏ trứng trong suốt hơn hai năm, hoàn thành đúng dịp sinh nhật Đại tướng. Tất cả các tác phẩm đều thể hiện sự tôn kính, tài năng và khéo léo của các nghệ sĩ Việt Nam trong việc khắc họa hình tượng vị tướng huyền thoại.
*
Với tất cả các thể loại của văn học nghệ thuật, mỗi tác phẩm của các văn nghệ sĩ đều góp phần xây dựng hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp như một biểu tượng bất tử, không chỉ trong lịch sử quân sự mà còn trong lòng văn hóa dân tộc. Những tác phẩm này đã giúp tôn vinh sự nghiệp và nhân cách của Đại tướng, đồng thời duy trì ký ức về một vị tướng vĩ đại trong lòng người dân Việt Nam và thế hệ mai sau. Qua những sáng tác của mình, các văn nghệ sĩ đã ghi lại dấu ấn của Đại tướng trong mọi lĩnh vực nghệ thuật, góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa Việt Nam. Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là một nhà quân sự xuất sắc mà còn là một biểu tượng văn hóa, một nguồn cảm hứng vĩnh cửu trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam.
Ngày 02.12.2024 – PVL