Những day trở thời bình…
Cách nay 15 năm, sau thành công của tiểu thuyết “Bê trọc” về đề tài chiến tranh, Phạm Việt Long xuất bản cuốn tiểu thuyết Giã từ, bộc lộ những thao thức, dằn vặt của tác giả trước cái xấu, cái ác trong cuộc sống thời bình. Tác phẩm miêu tả sinh động tình hình đất nước chuyển từ thời kỳ bao cấp sang cơ chế thị trường mà ở đó có những tranh chấp quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tốt đẹp và cái xấu xa; giữa bảo thủ, trì trệ và cách tân, năng động; giữa đạo đức trong sáng và thói vụ lợi, tham lam, quỷ quyệt… Đó là thái độ chiến đấu không khoan nhượng của nhà văn với cái xấu, vạch trần cái được và chưa được của một thời bao cấp và sự tất yếu phải đổi mới cũng như hội nhập quốc tế.
Tập truyện ngắn Phong lan về trời lần này vẫn tiếp tục tinh thần chiến đấu ấy. Trong truyện ngắn Âm bản, tác giả kể chuyện một nhiếp ảnh gia tên Bình, chỉ vì lo mưu sinh cho cả gia đình mà bị gán cho tội ngoại tình, bị mọi người trách cứ, xa lánh. Bình dẫn hai con về nhờ cậy mẹ già, bỏ nhiếp ảnh, bán đồ nghề, vay mượn để buôn bán nhưng do đen đủi thua lỗ, lại bị lừa lọc nên nợ nần đầm đìa không trả được, cuối cùng phải đi tù với tôi danh “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Anh đã nhận hết tù tội về mình, để những bạn buôn cùng bình an vô sự. Hết hạn ra tù, cuộc sống khốn khổ vẫn đeo bám Bình, nhưng anh vẫn luôn cố gắng kiếm tiền nuôi con. Thông qua tâm sự của Bình với đứa con gái bất hạnh, người đọc thấm thía hơn nỗi đau kiếp người và thêm trân quý người lao động chân chính.
Hoặc như Vợ chồng…6 tháng là một tứ truyện giản dị, nhưng nó gửi gắm trong đó là bao thông điệp ý nghĩa: Hãy sống thiết tha với cuộc đời, trân trọng những gì mình đang có và yêu thương người thân khi còn có thể… Hai vợ chồng già, đã bên nhau hơn nửa đời người, nhưng vì những nhiễu nhương đời sống, mãi sau này họ mới có được tấm giấy đăng ký kết hôn. Một câu chuyện cảm động giữa tình và lý, giữa cái mênh mông của tâm hồn và cái chật hẹp của luật lệ, quy ước. Tất cả được kể một cách dung dị, ăm ắp nỗi niềm nhân tình thế thái.
Nỗi niềm ấy của nhà văn còn hướng đến cây cỏ, thiên nhiên, môi trường đang bị sự vô tâm, lòng tham và cái ác tàn phá. Câu chuyện về “nguồn gốc” số phận cây Thiết mộc lan trong truyện Dạ hương là một ví dụ. Đặc biệt truyện ngắn Lánh nạn phóng sinh, nhà văn đã khẩn thiết phê phán của một mỹ tục vốn đầy tính nhân văn truyền thống, đã bị biến thành một tệ nạn của thời hiện đại, cũng chỉ bởi lòng tham của con người ở những khía cạnh khác nhau. Thông qua chú chim Ri bị mất “chồng” do nạn vây bắt mùa phóng sinh, rồi cuối cùng, lại chứng kiến cảnh con của mình bị con người thẳng tay giết hại, chú chim Ri đã đau đớn hoài nghi: “Không hiểu Phật có dạy người làm thủ tục Phóng sinh không? Phật dạy thế nào? Nhưng, cái tục ấy khiến loài chim chúng tôi vô cùng khốn đốn. Cứ vào tháng 7 âm lịch hàng năm, là vào mùa phóng sinh, cũng tức là vào mùa săn bắt lũ chim chúng tôi. Người ta săn bắt chúng tôi bằng mọi cách, để bán cho những người có “từ tâm” làm nghi thức phóng sinh. Như thế gọi là “phóng sinh” ư?”
Một số truyện khác trong tập, như: Ngờ vực; Rắn thần; Chó săn, Cáo và Mèo; Huyền thoại đầm Bạch Liên... cũng lên án và cảnh báo cái xấu, cái ác vẫn luôn hiện hữu trong đời sống hiện nay. Điều đáng quý là tinh thần chiến đấu ấy được xuất phát từ một tình cảm trong sáng, chân thành, nhân ái và đó là một giá trị đáng kể trong tập truyện ngắn này.
Một thời gian lao và… sống đẹp!
Không chỉ bàn về những kiếp người khốn khổ, về sự chung thủy, dối lừa, phản trắc… và những biểu hiện tha hóa của con người vì lợi ích riêng, dẫn đến sự đổ vỡ trong hạnh phúc, sự nghiệp, tình người...; tập truyện ngắn Phong lan về trời còn đưa người đọc trở về những năm tháng chiến tranh hào hùng bi tráng. Đó là một thời gian khổ, hi sinh nhưng thật đẹp; từ cảnh thiên nhiên nguyên sinh, rừng núi hùng vĩ… đến tình người, tình yêu nước cũng trong sáng đẹp đẽ vô cùng.
Phong lan về trời, truyện ngắn được lấy làm tên chung cho tập sách, là một ký ức “đau mà đẹp” như thế. Giò phong lan rừng là biểu tượng cho tình yêu trong sáng trong bom đạn ác liệt, đẹp và thanh cao, lãng mạn và bi tráng. Giữa Trường Sơn bom đạn, giò phong lan của tình yêu đôi lứa đã phải “về trời” vì B52. Nào ngờ trong cuộc sống hòa bình hôm nay, những thứ ô nhiễm môi trường hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng còn tàn độc hơn bom đạn… Đặc biệt, truyện vừa Hơi ấm rừng chò chiếm gần nửa độ dày tập sách đã khai thác một góc khác của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Những nhân vật trong truyện, theo sự phân công của tổ chức, chỉ âm thầm làm nhiệm vụ của mình ở hậu cứ: phát rẫy, trồng khoai, tỉa lúa, bắp… và vô số công việc hậu cần, phục vụ cho đồng đội ở tuyến trước. Họ ở tuyến sau, nhưng dường như chẳng có ngày nào được bình yên: Họ đói muối, sốt rét, bị những trận B52 “rải thảm” và máy bay rải chất độc hoá học ngay trên đầu. Họ ốm đau trong hoàn cảnh thiếu thuốc, ở xa bệnh viện, có lúc đành để đồng đội kiệt sức dần rồi chết trên tay mình… Những chuyến xuống đồng bằng để mua thực phẩm, họ chứng kiến những cái chết khác, đột ngột, tang thương hơn: Một cậu giao liên cùng vượt đường vừa về đến trạm, hôm sau đã bị trúng đạn chết trong tức tưởi. Những cô gái trẻ măng, hồn nhiên tắm bên suối, những tân binh từ miền Bắc mới vào chưa mấy kinh nghiệm, lơ ngơ trong lúc hành quân... đều có thể ngày mai, ngay kia bị hi sinh vì vô vàn thủ đoạn tàn độc của quân thù… Sự khủng khiếp, tàn khốc của chiến tranh chỉ dịu đi khi tình yêu lãng mạn, tươi đẹp của các cặp đôi như Hoài với Hải, như Giáo với Nhơn... được nhen nhóm, nẩy nở và bồi đắp. Và sự hi sinh của những mối tình trong chiến tranh, trên mặt trận, càng tôn vinh những phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ.
Giọng văn đa dạng, linh hoạt
Nhà văn Phạm Việt Long nguyên là phóng viên chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Cuốn tiểu thuyết “Bê trọc” (xuất bản năm 1999) của ông được coi là một trong những tác phẩm văn học phi hưu cấu khá thành công của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm phản ánh khá chân thực và sinh động cuộc chiến đấu của quân và dân miền Trung Trung Bộ giai đoạn 1968-1975, đã nhận được Giải thưởng của Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam và dựng thành phim truyện truyền hình dài tập… Một tác phẩm văn học “kể chuyện truyền thống” mà đạt được như vậy kể cũng đã khá thành công.
Từ đó đến nay, Phạm Việt Long tiếp tục xuất bản một số tác phẩm văn xuôi đáng chú ý như Du khảo Hoa kỳ sau thảm họa 11-9 (ký sự, 2022), Giã từ (tiểu thuyết, 2007), Bi Bi và Mặt Đen (bộ sách truỵện thiếu nhi, 2016)… Đến tập truyện ngắn và truyện vừa Phong lan về trời lần này, cho thấy nhà văn vẫn tiếp tục phát huy sở trường về miêu tả và kể chuyện ở một cấp độ mới. Ở phần đầu, với 15 truyện ngắn, tác giả xây dựng tác phẩm từ nhiều góc chiếu khác nhau: Khi thì ông dùng góc chiếu hiện thực để phản ánh chân thực cuộc sống hàng ngày, với những lo toan thường nhật, vượt lên những khó khăn về vật chất để giữ lấy định hướng của cuộc đời. Có khi, ông lại dùng góc chiếu ngụ ngôn, dùng loài vật để cảnh báo những mối nguy hại do con người gây ra, từ tàn phá môi trường tới thỏa hiệp với cái xấu; qua đó mà đề cao sự chân thực, lòng thủy chung, đem lại niềm tin về những điều tốt đẹp của cuộc sống. Lại có khi ông dùng góc chiếu huyền ảo nhuốm màu sắc tâm linh để cắt nghĩa “đời thực” và “giác ngộ” lẽ đời.
Đặc biệt trong truyện vừa Hơi ấm rừng chò, nhà văn tiếp tục thành công với những hồi ức chân thực của người từng trải qua chiến tranh suốt những tháng năm tuổi trẻ, nhưng tác giả đã không mô tả hiện thực ấy bằng giọng văn hào sảng như trong “Bê trọc” mà ta bắt gặp một lối tiếp cận khác, một tiếng nói riêng tư hơn và thấm đượm nỗi buồn nhân bản…
Ngoài lối kể bám sát đời sống, thì ở tập truyện này, ta thấy Phạm Việt Long còn sử dụng yếu tố huyền ảo, nhân hóa, ẩn dụ theo ý đồ nghệ thuật, nhưng vẫn rất tự nhiên. Kể cả trong truyện vừa Hơi ấm rừng chò, là truyện viết về chiến tranh, cũng được viết khác đi so với bộ nhật ký chiến trường “Bê trọc” gây tiếng vang trước đây của ông, đó là lối kể mạnh bạo hơn về cái riêng tư trong tình yêu, kể cả phần tính dục cũng được ông đề cập, dù nhẹ nhàng nhưng để lại ấn tượng sâu, đẹp trong người đọc. Tập truyện thể hiện sự đổi mới triệt để trong chính ngòi bút của nhà văn. Ông đã đi từ cuộc sống hiện thực trần trụi và biến chúng thành những câu chuyện mang tính nghệ thuật cao, nhiều truyện phảng phất sương khói liêu trai dẫn dụ người đọc. Nhìn chung, các truyện ngắn và truyện vừa của Phạm Việt Long trong Phong lan về trời đều có kết cấu khá đơn giản. Tác giả không theo đuổi thứ văn chương hoa mỹ, cầu kỳ. Sự duy mĩ trong sáng tác của nhà văn nằm ở các hình tượng và nhân vật mà ông theo đuổi.
Là nhà báo từng trải, từng tham gia công tác quản lý văn hóa cấp Bộ, là tiến sĩ văn chương nghiên cứu văn hóa và tham gia giảng dạy văn hóa bậc đại học… nên các sáng tác văn xuôi của Phạm Việt Long mang đậm hơi thở của đời sống, “chất đời” thấm đẫm trong từng trang viết của ông. Với nhiều chi tiết đầy tính ẩn dụ và có chủ ý ở một số truyện, ngòi bút của Phạm Việt Long đã phơi bày, truy đuổi đến tận cùng cái xấu, cái ác. Dù khai thác nhiều vấn đề khác nhau, dù nói về chiến tranh hay thời bình, dù phê phán mạnh mẽ những thói hư tật xấu…thì trước sau tác giả của Phong lan về trời đều nhằm tụng ca cái đẹp, tình yêu thương con người và thiên nhiên, nỗi khao khát hoà bình và những tình cảm trong sáng, chân thành trong cuộc sống hôm nay.