Bản nhạc có thể được chia thành ba phần chính: mở đầu, phát triển và kết thúc. Mỗi phần có những đặc điểm âm nhạc riêng biệt, phản ánh những ý nghĩa khác nhau.
Phần mở đầu bắt đầu với một giai điệu êm ái, chậm rãi, do đàn tam thập lục, thập lục, tỳ bà trình tấu. Câu nhạc có chất liệu Huế làm chủ đề, thể hiện sự gần gũi, thân thương và tự hào với văn hóa địa phương. Tiếp theo, có tiếng trống thúc và tiếng kèn, tạo nên một sự chuyển biến về nhịp điệu và âm sắc. Nhạc cụ gõ và kèn thường được sử dụng trong các buổi lễ hội, biểu hiện sự hào hứng, phấn khởi và sôi động. Giai điệu tiếp tục được phát triển bởi nhạc cụ dây và sáo trúc, nhưng có sự thay đổi về độ cao và độ dài của các nốt nhạc. Giai điệu này sử dụng chất liệu âm nhạc của điệu Phượng Vũ, một điệu múa truyền thống của Huế, biểu tượng cho chim phượng hoàng, linh vật của kinh thành. Điệu Phượng Vũ có ý nghĩa là đất nước bình yên thì chim phượng mới múa, nói lên sự hân hoan, hồ hởi trong không khí thái bình. Khung cảnh êm đềm, huyền ảo của kinh thành cũng được diễn tả qua âm sắc nhẹ nhàng, dịu dàng của nhạc cụ dây và sáo trúc. Phần mở đầu kết thúc bằng một câu nhạc ngắn, do nhạc cụ gõ và kèn thể hiện, tạo nên một sự chuyển tiếp sang phần tiếp theo.
Phần phát triển là đoạn dài nhất và sôi động nhất của bản nhạc, được trình diễn bởi toàn bộ dàn nhạc với sự tham gia của nhiều nhạc cụ dân tộc thuộc bộ dây, bộ hơi, và bộ gõ. Đoạn này diễn tả không khí hội hè, mang tính chất vũ hội khoáng đạt và nhộn nhịp. Giai điệu được phát ra từ nhạc cụ dây và sáo trúc, với sự thay đổi về độ cao, độ dài, và cường độ của các nốt nhạc, tạo nên một sự phong phú và đa dạng. Giai điệu đôi lúc mô phỏng câu hò sông Hương, thể hiện sự duyên dáng, lãng mạn và tình cảm của người Huế. Ngoài ra, phần phát triển còn xen kẽ âm nhạc dân ca Bắc Trung Nam, thể hiện sự thống nhất và đa dạng văn hóa của Việt Nam. Nhịp điệu của phần này nhanh và đều, mang lại cảm giác hứng khởi, nhịp nhàng và hài hòa. Âm nhạc phong phú, sử dụng nhiều hợp âm và chuyển đổi giữa các tông khác nhau, giàu sắc thái. Âm sắc rực rỡ, sinh động và đa dạng nhờ sự kết hợp của nhiều nhạc cụ đối lập và bổ sung cho nhau. Kết cấu đa âm, có sự đối đáp, xen kẽ và hòa âm giữa các nhạc cụ và giai điệu, tạo nên một sự đa chiều và phong phú. Hình thức tự do, không theo mô típ cố định, thay đổi liên tục, mang lại sự mới mẻ và bất ngờ. Phần phát triển kết thúc bằng một cao trào, cả dàn nhạc tấu một câu nhạc mạnh mẽ, nhanh và sắc nét, nổi bật là tiếng sáo trúc đầy phấn khích, tạo nên sự kết thúc hoành tráng và khéo léo chuyển về phần Koda (kết thúc toàn bộ bản nhạc).
Phần koda là đoạn ngắn nhất và bình yên nhất của bản nhạc. Đoạn này tái hiện chủ đề âm nhạc nhưng không hoàn toàn mà mở rộng, tạo không khí khoáng đãng cho cảm xúc. Đoạn nhạc biểu đạt trạng thái vững vàng, bền chặt và hòa hợp theo hướng phát triển của đất nước sau những biến động lịch sử. Đây cũng là lời tri ân và tưởng nhớ những người đã hy sinh và đóng góp cho sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước. Đoạn nhạc chậm dần, khoan thai, tiếng trống điểm nhịp, tiếng sáo vút lên để kết thúc trong trạng thái bình yên, an lành và thái hòa.
“Đất nước thái hòa” của Phạm Ngọc Khôi là một tác phẩm âm nhạc đầy ý nghĩa và sáng tạo, phản ánh tình yêu quê hương, đất nước và văn hóa Việt Nam. Bản nhạc không chỉ là món quà dành cho Festival Huế, mà còn là lời ca ngợi đất nước Việt Nam trong niềm vui hòa bình, thống nhất và xây dựng. Đây cũng là minh chứng cho sự phát triển và đổi mới của âm nhạc đương đại Việt Nam, với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa địa phương và quốc gia, giữa âm nhạc và tư tưởng. Đây là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao, đáng được phổ biến rộng khắp và trân trọng.
Link nội dung: https://phamvietlong.vn/dat-nuoc-thai-hoa-cua-pham-ngoc-khoi-tac-pham-nghe-thuat-co-gia-tri-cao-2726.html