LÀM MỚI NHỮNG CA KHÚC ĐÃ ĐI CÙNG NĂM THÁNG NHƯ THẾ NÀO?

Gần đây, trong đời sống âm nhạc khá ồn ào chuyện làm mới những ca khúc đã vượt thời gian, đi cùng năm tháng, sống với công chúng nhiều thế hệ. Khá nhiều ca khúc được “làm mới” thuộc dòng nhạc cách mạng (còn được gọi là nhạc đỏ). Đặc tính của những ca khúc này, là nội dung hướng tới cái cao cả, với tình yêu và tinh thần bảo vệ tổ quốc, cho nên rất hùng tráng. Đồng thời, xuất phát từ tình yêu chân thành và mạnh mẽ với cuộc sống, nhiều ca khúc ở dòng này lại giàu chất trữ tình, trong sáng, lạc quan. Nhìn chung, hùng tráng và trữ tình là hai đặc tính nổi bật của dòng nhạc cách mạng.

van-cao-1718905420.png
 

Việc những ca khúc đã có tuổi đời của nhiều thế hệ cộng lại vẫn được công chúng yêu mến, được các nhạc sĩ, ca sĩ trẻ dàn dựng, biểu diễn, là một tín hiệu đáng mừng. Trên thực tế, việc “làm mới” của nhiều ca sĩ, nhạc sĩ đã thành công và cũng nhiều trường hợp gặp phải sự phản ứng gay gắt của cộng đồng.

Gần đây nhất, ca sĩ Mỹ Linh đã thất bại thảm hại khi hát Quốc ca Việt Nam tại sự kiện đón tiếp Tổng thống Mỹ Ba Rack Obama ngày 24.5.2016. Mỹ Linh đã chuyển nhịp bài Quốc Ca từ 2/4 (phù hợp với hành khúc), sang nhịp ¾ (phù hợp với nhảy val) và hát theo tốc độ quá chậm. Cô ca sĩ và những nhạc sĩ phối khí, dàn dựng Quốc ca này có kiêu ngạo quá không, khi cho rằng phải chuyển như vậy mới hợp với nhạc cổ điển và mới hợp với không khí thời đại? Phần lớn ý kiến đánh giá Mỹ Linh đã phá nát tinh thần của Quốc ca Việt Nam ngay trong một sự kiện trọng đại. Lỗi không chỉ nằm ở chỗ cô tùy tiện biến tấu Quốc ca, mà còn là vì cô hát bị đuối hơi, sai nhịp, nên bài hát lại càng trở nên thiếu sức sống. Trên diễn đàn, một chiến sĩ quân đội không kìm nổi sự phẫn nộ: “Quốc ca của Tổ quốc tôi đây sao? Đây là ca sĩ được chọn để hát bài hát đại diện cho quốc thể đây sao? Giọng của ca sĩ khàn buồn, u ám, nặng trĩu. Còn đâu nữa những ca từ làm con tim của hàng triệu người dân Việt phải thổn thức bởi sự oai hùng, đầy sinh lực tin yêu Tổ quốc mình?”. Phát biểu với báo chí, NSƯT Bích Việt nhận xét: “Mỹ Linh đã hát Quốc ca như một nhạc khúc đưa hồn tử sĩ, chứ không phải một ca khúc tự hào dân tộc. Một nghệ sĩ khi có dịp thể hiện Quốc ca trong một sự kiện trọng đại như thế, phải biết tự tỏa sáng, phải hát bằng sự mãnh liệt của trái tim lẫn sự sáng của trí tuệ bằng tất cả lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân dân. Là ca sĩ đã đạt giải Nhất giọng hát thính phòng do Bộ VHTTDL tổ chức năm 1987, tôi thấy Mỹ Linh hát Quốc ca theo phong cách thính phòng cổ điển kiểu “dở trăng dở đèn”. Bên cạnh đó, cần phải phê bình cả ê-kíp kiểm duyệt chương trình”. Cũng cần nói thêm rằng, do đã có quá nhiều thời gian dành cho nhạc nhẹ và những dòng nhạc giải trí khác, nay quay lại hát cổ điển, Mỹ Linh đã bị pha tạp, yếu giọng, non hơi, cho nên mới dẫn tới thảm họa như thế.

Sự thất bại của Mỹ Linh không phải là hiện tượng cá biệt. Trước Mỹ Linh, một số nghệ sĩ đã thất bại trong những chương trình đáng trân trọng, như “Giai điệu tự hào”. Bên cạnh việc dàn dựng và biểu diễn thành công nhiều ca khúc cách mạng, “Giai điệu tự hào” cũng để lại những hạt sạn không đáng có. Trong số đó, nổi lên hai trường hợp là ca khúc “Đi học” do ca sĩ Hải Bột trình diễn và ca khúc “Xa khơi” do ca sĩ Anh Thơ biểu diễn. Qua phần trình diễn “Xa Khơi”, Anh Thơ chỉ đem lại số điểm rất thấp: 67,02% số phiếu bình chọn của khán giả tại trường quay. Có thể thấy, điểm yếu của ê kíp cùng Anh Thơ dàn dựng ca khúc này là đã thêm đoạn xướng âm (các ca sĩ hay gọi là phiêu) vào gần cuối bài, làm loãng chủ đề âm nhạc, phá vỡ cấu trúc của tác phẩm. Mặt khác, cách hát rển rĩ, ủ ê của Anh Thơ trái hẳn với tính chất mạnh mẽ, tha thiết của ca khúc, biến hình tượng người phụ nữ “kề vai” với nam giới trong cuộc đấu tranh thống nhất đất nước thành người phụ nữ cô đơn hóa đá trông chồng! Còn bài “Đi học” do ca sĩ Hải Bột trình diễn, đã tự tiện chuyển nhịp từ 2/4 sang ¾ và hát sai một số nốt nhạc, gây phản cảm cho người nghe. Nhiều khán giả chê ca sĩ hát vừa sai lời vừa không thể hiện được hết những nốt luyến láy. Những khiếm khuyết đó của ca sĩ và nhạc sĩ phối khí đã làm hại tác phẩm!

Có thể thấy mấy nguyên nhân của việc “làm mới” ca khúc lại biến thành thảm họa, như sau:

Thứ nhất, nhạc sĩ và ca sĩ chưa hiểu thấu đáo tác phẩm cùng thời đại mà tác phẩm ra đời, quá tự tin nên dã can thiệp sâu vào bản thân tác phẩm chứ không thể hiện sự đổi mới của mình qua cách phối khí, dàn dựng và biểu diễn. Hoặc là nghệ sĩ chỉ chăm chú tới kĩ thuật nghề nghiệp mà không chú ý tới sự rung động của bản thân mình, hoặc là sự rung động của nghệ sĩ ở đây lệch hướng, khiến cho họ làm biến dạng tác phẩm.

Thứ hai, nhạc sĩ và ca sĩ đã đụng chạm vào cấu trúc của tác phẩm, phá vỡ nó, khiến nó mang dị tật, mất hình hài đẹp đẽ vốn có.

Không phải chỉ âm nhạc, mà trong các bộ môn nghệ thuật khác, có rất nhiều tác phẩm của Việt Nam và các nước trường tồn với thời gian, làm rung động con tim của nhiều thế hệ công chúng. Ví dụ như các tác phẩm điêu khắc, hội họa. Vậy, làm mới các tác phẩm đó thế nào đây? Lẽ nào vì sợ công chúng đương đại không hiểu nổi những tác phẩm xa xưa, mà phải thêm râu ria hoặc chặt bớt chân tay, thay đổi mầu sắc? Câu trả lời là cần tồn trọng tính nguyên bản của tác phẩm, còn có thể đổi mới ở cách trưng bày, dàn dựng…

Việc làm mới tác phẩm xưa không phải bây giờ mới có, cũng không phải chỉ các nghệ sĩ trẻ đương đại mới phát hiện ra và thực hành. Nó đã có từ lâu và khá phổ biến. Đáng khâm phục là nghệ sĩ của một số nước đã dàn dựng, trình diễn thành công nhiều tác phẩm của Việt Nam, nghe rất mới, hiện đại mà vẫn thấy nguyên hình tác phẩm. Có thể dẫn ra đây 2 trường hợp là “Diễm xưa” của Trịnh công Sơn, và “Chú ếch con” của Phan Nhân.

Khi dàn dựng, biểu diễn bài “Diễm xưa”, các nghệ sĩ Nhật Bản phải vượt qua hai thử thách: Thử thách thứ nhất là về sự khác biệt văn hóa. Thử thách thứ hai là về nhu cầu “làm mới” tác phẩm của thời đại trước cho phù hợp với không khí thời nay. Một bài hát của Việt Nam, có cách cảm, cách nghĩ, cách diễn Việt Nam, nay, làm sao công diễn mà thu hút được sự yêu mến của người Nhật? Trả lời câu hỏi, các nghệ sĩ Nhật Bản đã đưa về chỉ số chung – đó là chất nhân văn, mà dân tộc nào cũng có, đồng thời dàn dựng ca khúc này theo phong cách âm nhạc dân gian Nhật Bản với ca từ được dịch sang tiếng Nhật. Bởi vậy, “Diễm Xưa” đã trở nên gần gũi với người Nhật. Các nghệ sĩ Nhật Bản đã dùng cả dàn nhạc lớn cùng ca sĩ thể hiện “Diễm xưa”, tạo cho nó sự hoành tráng, bao la. Đáng chú ý nhất, là từng nốt nhạc – cả giai điệu và tiết tấu, đều được tôn trọng, không thay đổi dù một chút nhỏ. Nhờ thế, “Diễm xưa” được khoác bộ trang phục lộng lẫy mà vẫn không bị che mờ, giai điệu của ca khúc càng nổi bật lên. Khi nghe bản “Diễm xưa” có phần lời bằng tiếng Nhật do nữ ca sĩ thể loại enka (dân gian Nhật) nổi tiếng nhất nước Nhật là Tendo Yoshimi, thể hiện, hoặc do Tendo Yoshimi cùng Shimazu Aya song ca, người nghe rung động mạnh mẽ bởi chất trữ tình và nhân văn sâu sắc, nét nhạc phóng khoáng, mở ra những hi vọng cho tình yêu của con người. "Diễm xưa” đã được người Nhật tôn vinh là một trong 10 bài hay nhất mọi thời đại.

Cũng như vậy, sự thành công đã đến với ca khúc “Chú ếch con” do Phan Nhân sáng tác năm 1967- được dàn dựng, biểu diễn ở Ý với giọng đơn ca của cô bé người Việt Hương Trà cùng dàn hợp xướng thiếu nhi Quốc tế vào năm 2003, tại cuộc thi hát “Tiếng hát trẻ em quốc tế” nhằm gây quỹ từ thiện do trường Piccolo Coro ở Bologna (Ý) tổ chức. Điều dễ nhận thấy là cô bé Hương Trà 8 tuổi đã trình bày tự tin ca khúc “Chú ếch con” (Ma va la) với phiên bản tiếng Ý và tiếng Việt trong sự hòa đồng của dàn hợp xướng thiếu nhi với nguyên bản của ca khúc, trong sáng, rộn ràng, không bị thay đổi dù chỉ là một nốt luyến láy. Trong khi đó, ca khúc được làm sôi động thêm, vang ngân hơn nhờ phần phụ họa. Những người dàn dựng bài hát đã thêm những đoạn hát ở phần giữa hai lần hát hoặc ở những chỗ đối thoại với giọng đơn ca, sau phần kết của bài hát, khiến cho dung lượng nghệ thuật được mở rộng, không gian của đối tượng phản ánh trở nên bao la. Có thể hình dung rằng, giọng ca của Lê Nguyễn Hương Trà với ca khúc nguyên bản tập trung thể hiện nhân vật chính là chú ếch con, còn dàn hợp xướng phụ họa lại thể hiện một cánh đồng rộng bao la – khung cảnh sống của chú ếch, làm cho chú ếch càng nổi bật lên.

Ở trong nước, cũng không hiếm hiện tượng làm mới ca khúc rất thành công. Với “tuổi đời” 55, “Chiếc khăn piêu” của nhạc sĩ Doãn Nho đã bộc lộ sức trẻ của mình khi được ca sĩ Tùng Dương thể hiện với mọt sắc thới hoàn toàn mới mẻ, trẻ trung. Đúng như nhận xét của nhạc sĩ Doãn Nho, “Chiếc khăn piêu” đã được làm mới, có sức chinh phục mới là nhờ ca sĩ Tùng Dương cùng nhạc sĩ phối khí Nguyên Lê đã có rất nhiều sáng tạo. Sự sáng tạo này trước hết có được là do Tùng Dương cùng Nguyên Lê đã tìm hiểu kỹ ca khúc, tham khảo các phiên bản ca khúc do các nghệ sĩ bậc thầy từng trình diễn, tôn trọng tác giả, tôn trọng tính nguyên bản của tác phẩm, rồi thay đổi một chút kết cấu nhưng không phá vỡ cấu trúc, đã biến ca khúc từ một đoạn đơn thành hai đoạn đơn có tái hiện, tạo sức hấp dẫn mới. Hơn nữa, Tùng Dương đã thẩm thấu từ nốt nhạc tới tinh thần của bài hát, cho nên đã hát bằng sự say đắm cùng kĩ thuật điêu luyện của mình khiến người nghe bị mê hoặc.

Ca sĩ Đức Tuấn có niềm say mê đặc biệt với dòng nhạc trữ tình cách mạng. Anh đã cho ra mắt Album “Những bài ca không quên” gồm 15 ca khúc đã đi cùng năm tháng mà anh đã dày công tạo dựng trong một thời gian khá dài. Anh không cố hát theo các bậc tiền bối như Quốc Hương, Trung Kiên… mà dem tình cảm chân thật nhất đến với ca khúc, hát bằng cả tấm lòng, pha trộn phong cách nhạc nhẹ, nhạc phương Tây. Để tác phầm trở nên gần gũi hơn với lớp trẻ, anh không sử dụng kĩ thuật cộng minh được học trong Nhạc viện, mà hát thanh thản, nhẹ nhàng. Trên nền âm nhạc cổ điển, cách biểu diễn của Đức Tuấn pha trộn chất nhạc đương thời – Dance, Hiphop, Rock, dân gian đương đại cùng nhiều chất liệu âm thanh điện tử… khiến cho mầu sắc âm nhạc phong phú hơn, trẻ trung hơn, dễ được lớp người đương thời tiếp nhận. Đức Tuấn đặc biệt thành công với ca khúc “Lá xanh”, ca khúc duy nhất trong 15 ca khúc của Album được anh ghi dòng chữ REMIX (Làm mới). Để có ca khúc “Lá xanh” được làm mới thực sự, Đức Tuấn đã dày công lao động nghệ thuật. Tuy anh không nói ra, nhưng khi nghe anh hát ca khúc này, có thể hiểu rằng anh đã nghiên cứu rất kỹ tác phẩm và bối cảnh xã hội thời nó ra đời, đồng thời quan sát kỹ cuộc sống hôm nay. Anh đã tìm ra sợi dây kết nối giữa hai thế hệ, hai giai đoạn lịch sử, đó là tình yêu nước và trách nhiệm của thanh niên đối với Tổ quốc. Và anh làm mới theo sự dẫn dắt của dường dây đó. Anh hát nguyên bản “Lá xanh”, với phong thái sôi nổi, vui vẻ trong thể loại nhạc Electror Pop để làm giảm bớt tính trang trọng, hơi căng thẳng của không khí thời chiến. Đặc biệt, anh thêm vào ở phần nhạc dẫn, phần giữa hai lần hát và phần vĩ thanh của ca khúc những đoạn Hip hop, Rap rất sôi động, với nội dung tương đồng với ca từ của “Lá xanh” nhưng lại có không khí của thời đại mới: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên, Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam…”, “Biển Đông là của Việt Nam”. “Hội nhập và phát triển” tạo không khí sôi động, tươi trẻ, tràn đầy khí thế cách mạng mà không khuôn cứng, hô khẩu hiệu. Như thế, Đức Tuấn đã thành công ngay ở khâu ý tưởng làm mới ca khúc, làm mới theo xu hướng kết hợp nội dung xã hội xưa và nay, vận dụng các thủ pháp nghệ thuật trên cơ sở tôn trọng tính nguyên bản của tác phẩm, chứ không phải là “làm mới” theo lối kĩ thuật đơn thuần, mất phương hướng về nội dung. Riêng ca khúc “Lá xanh”, Đức Tuấn và nhạc sĩ phối khí đã mất gần một tháng với hơn một chục lần sửa chữa mới hoàn chỉnh để có được bản thu thanh đưa vào Album “Những bài ca không quên”. Làm kĩ như vậy nên khi thu âm chỉ mất 30 phút và khi công bố, đã làm rung động hàng triệu con tim! 

Lá xanh - Đức Tuấn

Bài học ở đây là cần thận trọng khi làm mới tác phẩm âm nhạc bởi dòng nhạc hiện đại và cổ điển luôn luôn có ranh giới cần thiết của nó. Phải coi việc làm mới tác phẩm không chỉ đơn thuần là về kĩ thuật, mà là một hành vi văn hóa. Nghệ sĩ cần bồi đắp cho mình một vốn văn hóa nhất định để hiểu và xử lý hợp lý tác phẩm. Khi muốn thực hiện công việc này, trước hết, nghệ sĩ phải rung động với tác phẩm, tiếp đó nghệ sĩ cần nghiên cứu kỹ tác phẩm và hoàn cảnh ra đời của nó, đặt mình vào hoàn cảnh đó, kết hợp với nhận thức của thời đại mới, mà sáng tạo. Tuyệt đối tôn trọng tính nguyên bản của tác phẩm, bởi đây không những là yêu cầu của nghệ thuật, mà còn là yêu cầu của Luật pháp – bộ Luật về quyền sở hữu trí tuệ đã khẳng định điều này

        Nghệ sĩ có thể sáng tạo bằng cách thêm vào phần dạo đầu hay dạo giữa, phần hát phụ họa, vĩ thanh… những nét nhạc tươi mới, những âm thanh hiện đại, nhưng không đối nghịch với tinh thần của tác phẩm gốc. Cũng có thể tăng giảm tốc độ, lên tông hoặc xuống tông cho phù hợp với khung cảnh lúc biểu diễn.

        Thời nào cũng vậy, những sắc thái của con người đều tương đồng, có vui và buồn, có thương yêu và căm ghét, có mạnh mẽ và yếu đuối, có dũng cảm và hèn hạ, có hào hùng và bi thảm. Bởi vậy, con người của thời đại này có thể đồng cảm với những tác phẩm của thời đại khác, đặc biệt là đối với những tác phẩm đã đạt tới đỉnh cao. Bởi vậy, có những tác phẩm không cần làm mới mà vẫn luôn mới mẻ trong sự cảm nhận của công chúng mọi thời đại. Nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện chỉ rõ: “Remix (làm mới) có nguyên tắc của nó, người làm nhạc phải tuân thủ. Có những bài không thể remix được. Do bỏ qua hoặc vô tình bỏ qua vì vốn kiến thức về âm nhạc của người làm còn hạn chế sẽ tạo nên một mớ hỗn độn các sản phẩm nhạc remix, đến mức khán thính giả yêu nhạc không thể nghe được”.

 

 Phạm Việt Long

Link nội dung: https://phamvietlong.vn/lam-moi-nhung-ca-khuc-da-di-cung-nam-thang-nhu-the-nao-2694.html