Hoài cắm cúi leo dốc. Chợt, một làn gió mát rượi thổi thốc tới, khiến anh ngẩng mặt lên. Ồ, lên đến đỉnh dốc lúc nào mà không hay. Bước thêm mấy bước, anh đặt ba lô, ngồi xuống bộ rễ một cây Chò - nó trải rộng trên mặt đất, nhẵn bóng. Hoài phanh ngực áo, ngồi dựa vào gốc cây, đón làn gió phóng khoáng tràn từ phía Nam lên. Trải rộng trước mắt anh là mênh mông xanh của rừng, xen vào những đám rẫy đang được phát, lộ ra những khoảng đất mầu vàng nâu, báo hiệu mùa phát rẫy bắt đầu. Chính vì mùa rẫy đang đến mà Hoài được phân công vào cơ sở sản xuất Nóc ông Chanh của Ban, tham gia sản xuất. Ở căn cứ, bên cạnh công tác chuyên môn, thì việc gùi cõng, sản xuất được coi là nghĩa vụ của mỗi người.
Đón anh ở khu sản xuất là một cô gái.
- Chào anh!
Giọng nói ấm áp của cô gái làm cho Hoài thấy mát lòng mát dạ, quên hết cả nỗi mệt nhọc sau hai ngày băng rừng, vượt núi đến đây. Anh mỉm cười, chào lại:
- Chào em. Em ở nhà một mình à?
- Các anh chị lên rẫy hết rồi. Chị Nhơn đi kiếm măng. Em ở nhà giã gạo anh ạ. À, em là Hải. Anh Bá dặn em đưa anh lại nhà gần suối nước để anh ở với mấy ảnh.
Nói rồi, Hải bước đi chậm rãi. Hoài đi phía sau, ngắm nhìn dáng người gọn gàng, khỏe khoắn của Hải. Vào nhà, Hải chỉ về phía cuối nhà, bảo:
- Anh Bá bảo anh mắc võng ở chỗ đó, gần cửa sổ.
Hoài xách ba lô, đặt lên cái giá ở phía cuối nhà và nhìn quanh. Hai cái giá để ba lô có năm chiếc ba lô; giàn mắc võng có năm cái võng đã được cuộn lại gọn gàng, cột lại ở phía đầu. Anh biết, căn nhà này đã có năm người ở, thêm anh là sáu.
Thu xếp đồ dùng cá nhân xong, Hoài đã nghe tiếng chày giã gạo thì thụp ngoài sân. Hoài hỏi:
- Hải ơi, còn chày không?
- Dạ, còn. Nhưng anh nghỉ ngơi, kẻo mệt.
- Không sao. Anh khỏe mà!
Hải dừng tay, chạy lại đầu hồi lấy cái chày giã gạo trao cho Hoài.
Hai anh em bắt đầu giã gạo, tiếng nhịp chày đôi nghe rộn ràng. Hải khen:
- Anh Hoài giã gạo rành quá. Ở ngoài Bắc, anh có thường giã gạo không?
- Không, nhưng anh hay đi lao động trong các dịp hè, về nông thôn, làm nhiều việc của nhà nông, quen rồi.
Hoàng hôn đến thật nhanh. Chim chóc đã xào xạc gọi nhau về tổ. Trong ráng chiều nhập nhoạng, cối gạo cuối cùng đang được giã. Hoài bảo Hải dừng tay. Hải hiểu rằng Hoài muốn xem thử gạo đã trắng chưa. Cô gác chày và giữ chày cho Hoài. Anh cúi xuống, vốc một vốc gạo lên tay, đưa sát mũi. Hải hơi ngạc nhiên, nghĩ rằng mình đoán nhầm. Kia, Hoài đang hít hà nắm gạo. Một mùi thơm thơm ngòn ngọt phả lên, khiến Hoài ngây ngất. Anh nhớ những ngày còn là học sinh phổ thông, cứ hè đến là về nông thôn lao động; có lẽ nơi đến lao động hè cuối cùng của thời học sinh là xã Kim Lan, bên bờ sông Hồng, cách Hà Nội chỉ vài giờ chèo đò. Đã bao lần anh giã gạo và được hít hương thơm ngọt của đồng quê kết tinh trong những hạt gạo này! Bây giờ, nhìn những hạt gạo bị giã ra trầy vỏ hồng hồng, nhả ra thứ cám mìn mịn, âm ẩm, phả lên hương dịu ngọt của đồng quê, Hoài thấy nhớ da diết thời học trò, nhớ Hà Nội đến quặn thắt lòng! Hải ngỡ ngàng nhìn Hoài một lúc, rồi bảo: “Anh ơi, gạo đủ trắng rồi. Ta nghỉ nhé!”.
Hai anh em đã giã hết lúa, sàng sẩy sạch sẽ, được hai thúng gạo đầy. Thứ gạo rẫy hạt to, mẩy, cám mầu hơi đỏ, trông thật hấp dẫn. Ngoài Ban, dạo này hết gạo, ăn toàn ngô với sắn khô, phát ngán. Giá mà chuyển được thúng gạo này cho anh em ở Ban, có phải hay không – Hoài nghĩ.
Hải vào bếp nhóm lửa, loại bếp Hoàng cầm, được đắp vững chãi bằng đá, đất, có ống khói chạy dài ra phía sau bếp, không nhả khói khi đun nấu. Hải bảo: “Cơ sở của mình mới, còn thiếu nhiều thứ lắm anh ạ. Nhà, cũng mới làm được hai căn và một căn bếp. Căn này anh Bá và năm anh ở. Căn bên kia rộng hơn, ngăn làm hai, cho bốn chị em nữ chúng em và sáu anh nữa.”. Hoài thầm nghĩ: “Anh Bá ưu ái, cho mình ở bên này. Rồi, mình sẽ cùng anh em làm thêm căn nhà nhỏ cho mấy em gái ở riêng mới được!”.
Mặt trời chưa lặn, nhưng rừng đã tối sầm lại. Anh chị em đội sản xuất đi rẫy đã về. Mọi người xúm lại chào hỏi Hoài, rồi tản ra suối tắm rửa. Bá, đội trưởng đội sản xuất, nán lại, nói với Hoài:
- Cứ nghỉ ngơi, ngày mốt hãy tham gia phát rẫy nhé.
Hoài cười:
- Tôi khỏe rồi. Mai đi phát rẫy được mà!
Bá nhìn Hoài, cười hồn hậu. Bá người Bình Định, dáng người đầm đậm, tính tình cởi mở và làm cán bộ đánh máy, nhưng nổi tiếng là người giỏi sản xuất. Bởi vậy, Bá được Ban phân công vào nóc Ông Chanh này xây dựng cơ sở sản xuất mới, với biệt danh là Đội sản xuất Làng Tuyên.
Tháng 3, mùa phát rẫy đến với vùng cao Trà Mi bằng những đợt nắng nóng kéo dài. Sáng sớm, mới ló lên ở phương Đông, mặt trời đã đỏ rực, rồi chuyển sang mầu vàng đất, tỏa ánh nắng xuống núi đồi, mỗi lúc một thêm gay gắt. Lá cây rừng từ mòng mọng qua một đêm hút hơi sương mát mẻ, chuyển dần sang thô ráp dưới ánh nắng như thiêu như đốt.
Hoài cùng Đội Làng Tuyên bắt đầu những ngày phát rẫy dai dẳng. Đội khai phá vạt rừng non chiếm nửa quả đồi để làm rẫy. Mọc xen những cây gỗ nhỏ là những bụi mâm xôi rậm rì, đầy gai, bò ngùng ngoằng. Đây là “thành trì” khó hạ gục nhất. Cây mâm xôi mềm nhưng dai, gặp những nhát rựa chỉ nảy lên chứ không chịu đứt. Hoài và Hải, Giáo phải dùng cây dài làm đòn bẩy, đánh vòng, đi từ phía sau bụi mâm xôi đánh xuống. Bẩy cho bụi mâm xôi phơi gốc ra, Hoài dùng rựa chặt sát gốc, Hải và Giáo dùng gậy bẩy, cuộn dần bụi mâm xôi lại. Vậy mà vẫn không tránh khỏi bị gai của nó cào vào tay, tóe máu.
Trời nắng ong ong, nóng điên người. Phơi mình dưới trời nắng, Hải, Hoài, Giáo đánh vật với những bụi mâm xôi, hạ dần chúng. Những anh em khác dàn hàng chặt cây, phạt cỏ. Vắt thi nhau hút máu. Sao mà lắm vắt như vậy. Chúng cùng loài hút máu như đỉa, nhưng nhỏ và nhanh nhẹn hơn. Chúng bò thoăn thoắt, bám vào chân, mút chặt vào da mà hút máu. Có con búng tanh tách trên mặt đất, nhoằng một cái đã bám vào tay, hút máu không thương tiếc. Rồi còn ruồi mòng đốt nữa. Thứ ruồi này to gấp ba ruồi thường, có cái vòi cứng, nhọn hoắt như kim tiêm. Bám vào người, chúng đẩy hai chân sau lên, chúc vòi xuống, châm ngọt lịm qua da, hút từng giọt máu tươi, khiến ta buốt thon thót.
Buổi trưa, nghỉ một chút ăn cơm, bữa cơm dã chiến, chỉ có cơm nguội với măng xào, lương khô – thứ muối hầm trộn thêm hành phi dầu phộng (dầu lạc). Nhóm ba người Hải, Hoài, Giáo ngồi bên một gốc cây cuối rẫy, vừa chậm rãi ăn, vừa chuyện trò vui vẻ. Giáo chỉ vào Hải, nói: “Cô Hải để phần cơm cho ai trên mép đấy?”. Hải lấy tay vuốt mép, chẳng thấy gì, nhưng cô không hề lúng túng. Hải nói với Hoài: “Anh Giáo hay đùa dễ sợ. Em có anh nào đâu mà để phần cơm!”. Trông cô lúc này mới khỏe và xinh làm sao. Khuôn mặt bầu bầu. Đôi mắt đen, sáng. Đôi môi đầy đặn. Làn da phớt mầu bánh mật, khỏe khoắn. Lặng nhìn Hải, Hoài quên cả ăn. Hải ngỡ ngàng: “Ủa, anh Hoài, anh ăn đi chứ. Trưa quá rồi!”.
Những ngày phát rẫy diễn ra đều đặn, dai dẳng và đầy thử thách. Cơ thể mỏi mệt, đau nhức. Chân, tay mụn sưng đỏ tấy. Phải có ý chí chiến đấu - cứ vươn tới, vươn tới, lấn dần với cái mỏi mệt. Và rồi cũng qua đi. Đây, một ngày mới lại đến. Ăn cơm sáng trong ánh đèn dầu leo lét. Xách rựa ra rẫy trong cái lành lạnh của sương sớm. Ánh bình minh đón Hoài. Nó sáng lên với ánh sáng hơi xanh dịu hoặc ửng hồng, lan tràn trên các đỉnh núi. Mặt trời đỏ mọng như quả mâm xôi chín gặp Hoài khi nhô lên khỏi ngọn núi phía bên trái rẫy. Và những đám mây dầy đặc bao giờ cũng đem lại cho Hoài một cảm giác khoan khoái, mênh mông... Mây trắng đục như sữa tràn đầy không gian, đầy ắp các thung lũng, tràn phủ lưng những ngọn núi cao, làm ngập lút những ngọn núi thấp. Đứng trên núi nhìn về phía xa ấy, trông như một dòng sông mênh mông. Mây tạo thành dòng sông lớn, có những đoạn uốn lượn duyên dáng, có cả ngã ba bát ngát. Những mỏm núi nhô lên xanh xanh như những hòn đảo nổi giữa sông. Rồi Hoài cùng đội sản xuất bước vào rẫy và bị rẫy bưng lấy tầm mắt. Đó: cây, lau lách, gai góc, dây dợ đó, hãy xông tới mà chặt, mà dứt, mà cào. Con rựa, con rựa có cái mấu khoằm khoằm ở đầu tha hồ tung hoành. Rồi trưa đến với cái nắng cháy da. Ăn cơm trưa ngay tại rẫy. Xong, nghỉ tạm bợ dưới bóng cây, trên nền đất lởm chởm cho dãn xương cốt một chút rồi lại dậy làm. Khi mặt trời khuất sau những dãy núi trùng điệp và bầu trời chỉ còn mờ ảo với ánh sáng thoi thóp, Hoài cùng anh chị em ra về. Len qua những khu rừng, khe suối, vượt qua vài cái dốc nhỏ rồi về nhà. Nhào vào nước rửa ráy hoặc tắm ào, rồi mài rựa, rồi ăn cơm trong ánh đèn dầu leo lét.
Tối đến với những buổi họp bàn công việc. Hoài còn mở lớp dạy học cho Giáo, Hải và Nhơn. Cuộc sống sản xuất cứ diễn ra đều đặn, bình thản như vậy.
*
Nhanh thật, Hoài đã tham gia sản xuất được ba tháng rồi. Ba tháng qua đi với những ngày lao động khẩn trương vô cùng. Cuộc sống hối hả xốc tới như con tàu đã mở hết ga. Hầu như ngày nào cũng vậy, Hoài làm việc ít nhất là chín giờ đồng hồ, có khi tới mười, mười một giờ. Tối cũng ít nghỉ sớm - thường là hai mươi mốt giờ, vì còn dạy văn hoá, hoặc họp bàn kế hoạch sản xuất.
Những ngày dọn rẫy thật đáng nhớ. Hoài cùng anh chị em phơi mình dưới cái nắng lửa suốt ngày, không một bóng cây nhỏ. Gom cây, lá thành từng đống và châm lửa đốt. Hừng hực, hừng hực, từng đống lửa bùng lên, bùng lên ràn rạt, hơi nóng bốc lên, cuốn theo tro bụi. Hoài và mọi người vác những cây gỗ cháy nham nhở vứt khỏi rẫy hoặc xếp gọn lại. Dùng rựa cào cây nhỏ, dây dợ cho sạch. Chao, lúc ấy tro bụi tung lên mù mịt, thộc vào mồm, mũi nồng nặc. Đến ngột lên vì tro, vì nắng, nóng. Rồi trỉa (gieo) lúa, ngô. Tất nhiên là với phương thức rất nguyên thuỷ: dùng gậy thọc lỗ trên rẫy rồi tra hạt vào, lấp đất. Kể cũng lạ thật, làm như thế mà lúa ngô vẫn vươn lên xanh tốt - đặc biệt là ngô.
Hôm ấy, Hoài và Hải được phân công đi coi rẫy. Với phương thức xen canh để tăng hiệu suất của đất, Đội trồng ngô xen lúa. Ngô gieo trong lúa của đội rất tốt, cây vươn cao, ngọn phất phơ đùa gió. Mỗi cây ngô đứng thẳng, ôm trên mình một, hai trái mập mạp. Hoài nghĩ tới câu hát “Dòng sông đưa nước về xuôi mang bóng nương ngô cùng bồng con phất cờ” trong bài hát “Vui mùa chiến thắng” mà thấy lòng chộn rộn, vui với thành quả lao động bước đầu mà anh cùng anh chị em trong Đội sản xuất Làng Tuyên tạo dựng nên. Khi ngô mẩy hạt, bắp căng tròn, cũng là lúc lũ sóc tới phá. Bọn này khôn ranh và phàm ăn vô cùng. Từ trong rừng, chúng nhảy phóc ra rẫy, leo lên cây, ôm lấy trái ngô, gặm lấy gặm để. Hải lấy cục đất, dang tay ném mạnh, lũ sóc nhảy phóc vào rừng. Chúng không chạy xa, mà cứ thập thà thập thò ở cửa rừng, gọi nhau sọc sọc, hễ thấy vắng bóng người là nhảy phóc ra rẫy ăn ngô liền. Hoài dương súng định bắn, nhưng chúng thoăn thoắt di chuyển, không tài nào cho chúng vào vòng ngắm được. Phá rẫy ngô, còn có bọn đồi, có vẻ tinh ranh hơn cả bọn sóc. Hải chỉ cho Hoài nhìn ở góc rẫy, có những con vật bé nhỏ đang nhảy nhót. Hải thì thào: “Bọn đồi đấy anh ạ. Chúng lanh lắm, em chịu thua luôn!”. Theo hướng tay Hải chỉ, Hoài nhìn thấy một con đồi. Nó chỉ to hơn con chuột nhắt một tý, lông mầu xám, có ba sọc đen dọc sống lưng. Nó nhảy qua nhảy lại, thoăn thoắt như thoi đưa. Nhãng đi một cái đã thấy con đồi bám vào trái ngô, gặm lấy gặm để. Nó bé quá, chẳng bắn được – phí đạn. Nhưng cũng không có cách nào để bắt nó. Thôi, hai anh em dành đuổi nó vậy. Hoài chỉ vừa động tay một cái, con đồi đã nhảy phắt vào rừng.
Trưa, hai anh em không ăn cơm. Buổi sáng, trước khi ra rẫy, Hải bảo Hoài không cần đem cơm theo. “Em sẽ đãi anh một bữa đặc biệt của núi rừng!” – Hải ra vẻ bí mật, nói nhỏ với Hoài rồi nhoẻn miệng cười. Bây giờ, Hải bảo Hoài đi gom cành cây khô, còn cô tiến vảo rẫy, lựa bẻ tám trái ngô. Hai anh em cặm cụi nhen lửa. Khi ngọn lửa bùng lên, dần dần loang ra, tạo thành một bếp lửa, Hải bảo: Bây giờ em làm món đãi anh đây!”. Hải lột bớt bao lụa xanh của các trái ngô, để lộ ra lớp lụa bên trong nõn trắng, thả vào đống lửa. Cô dùng que củi khơi khơi để cho những trái ngô xếp dựng lên nhau, rồi chất thêm củi vào, khơi khơi tiếp cho lửa bốc lên cao. Hoài ngồi im, quan sát. Lửa vẫn cháy bừng bừng, hắt vào gương mặt Hải, làm cho má cô ửng hồng lên. Đôi mắt đen, lúc này càng sáng. Một tiếng nổ “bép” từ trong đống lửa, khiến mấy bụi than bắn vào mặt Hải. Cô hơi ngả người ra phía sau, lấy tay dụi dụi mắt. Hoài vội đứng lên, rút chiếc khăn mặt đang vắt vai, đỡ lấy đầu Hải. “Để anh lau cho!” – Hoài khẽ khàng nói. Bàn tay trái của Hoài đỡ vào mái tóc đen, dày của Hải, mái tóc sao mà êm, mướt quá! Hải ngồi im một lát, như cũng cảm thấy sự êm ái từ bàn tay Hoài. Chỉ một lát thôi, Hải đã đứng dạy: “Em hết bị bụi rồi anh!”. Xong, Hải lại ngồi xuống, khời nốt bốn trái ngô ra. Cả tám trái ngô, lớp vỏ đã cháy gần hết. Hải cẩm trái ngô có lớp vỏ mới cháy vàng, lột vỏ, để lộ ra những hạt ngô mẩy căng, trắng ngà, thơm phức. Đưa cho Hoài, Hải nói, giọng ngọt ngào: “Đây, đặc sản của núi rừng đây, anh từng biết chưa?”. Cô giục Hoài ăn trước để kiểm nghiệm món ăn đặc biệt mà cô hứa với anh sáng nay. Hoài cắn vào trái ngô, răng chạm vào thứ hạt deo dẻo, ngòn ngọt, thơm ngầy ngậy. Ở Hà Nội, anh cũng đã ăn ngô luộc, ngô nướng, nhưng đó là những trái ngô được hái từ hôm trước, hoặc gần nhất cũng là từ sáng. Bây giờ, anh mới được ăn trái ngô hái từ trên cây, thả thẳng vào bếp lửa. Ngọn lửa bao phủ, làm cho ngô chín từ bên ngoài vào. Bao nhiêu tinh túy của núi rừng đọng trong trái ngô được giữ lại, tạo hương vị thơm, ngọt mộc mạc mà đậm đà; không món thức ăn nào của thành thị có thể so sánh được với nó. Nhấm nháp một lúc để thưởng thức vị ngon ngọt đặc biệt của nương rẫy, Hoài bảo Hải: “Nào, em cũng thưởng thức đi chứ!”. Hải lột tiếp một trái ngô, đưa cho Hoài: “Em ra sức lột. Anh ra sức ăn. Xem tiệc của em có ngon không?”. Thế là hai anh em cùng nhau ăn hết trái ngô này đến trái ngô khác, làm một bữa thay cơm, ngon lành. Mà Hải tài thật, tính toán khớp quá, mỗi người chỉ cần ăn bốn trái ngô là đủ bữa rồi! Thật là sung sướng khi được hưởng thành quả lao động do chính tay mình làm nên.
Ăn xong, Hải nhìn mặt Hoài, cười: “Ôi, anh Hoài có râu rồi!”. Vốn nhạy cảm, Hoài hiểu ngay là mình bị nhọ mặt vì than dính trên vỏ trái ngô bám vào. Anh gãi gãi đầu, cười trừ. Hải lấy chiếc khăn mặt của cô, bảo: “Anh ngồi im, để em lau cho!”. Bây giờ, một bàn tay êm ái của Hải lại đỡ lấy đầu Hoài, để tay kia cầm khăn lau nhè nhẹ trên gương mặt dính nhọ than của Hoài. Rồi Hải bảo: “Hết râu rồi, anh!” và bước ra, ngồi xuống chiếc rễ cây trước mặt Hoài. Hoài vẫn còn lâng lâng trong cảm giác êm ái từ Hải đem lại, nên cứ ngồi im như tượng. Chỉ đến khi tiếng con sóc kêu “sọc, sọc...” ở đầu rẫy, Hoài mới đứng phắt dậy...
Ngô đã chín đều, lá vàng đi, rũ xuống, để lộ ra những trái bắp hình trụ múp đầu tròn căng, vỏ héo, râu đen. Đội tập trung đi thu hoạch ngô. Mỗi người một gùi đeo sau lưng, hai tay thoăn thắt bẻ từng trái ngô quăng vào gùi. Rẫy thưa bớt cây ngô đi bao nhiêu, thì nhà đầy những gùi bắp ngô lên bấy nhiêu. Chả mấy chốc, ngô đã chật nhà chật cửa. Mọi người lột bao rồi chất các trái ngô lên dàn, tối đốt lửa sấy. Lẽ ra có thể phơi, song lũ máy bay lượn dữ quá, sợ chúng phát hiện ra. Tối nào cũng vậy, mùi khói lửa quện với mùi ngô sấy tạo thành một mùi thơm nồng nồng, ngai ngái, ghi đậm dấu ấn trong tâm trí Hoài.
Hoài, Hải cùng toàn đội vừa thu hoạch ngô vừa làm cỏ lúa. Trời hay mưa chiều - cứ xế trưa là trời chuyển mình, mây dồn lại đen kịt, rắc mưa xuống ào ào. Có khi mưa suốt buổi, ủ ê, buồn tẻ. Lúc mưa lớn quá, không thể làm rẫy, Hoài lại tranh thủ dạy cho Hải, Giáo, Nhơn những bài văn, bài toán lớp bốn. Hải rất ham học và hay hỏi. Mặc dù học mới lớp bốn, nhưng do ham đọc sách, những cuốn sách từ Ban mà anh Bá đem vào, Hải thường đặt những câu hỏi về văn học Liên Xô: “Anh Hoài ơi, chuyện về anh Pa ven là chuyện có thật không anh?”. Hoài giải thích: “Truyện này dựa trên sự thật, nhưng nhà văn có sáng tạo thêm, em ạ!”. Hải thủ thỉ: “Thật hay không thật thì em vẫn quý mến anh Pa ven. Anh ấy làm gì cũng say mê, có lý tưởng!”.
Trong những ngày làm rẫy này, Hải và Hoài lại có chung một niềm vui giản dị. Đó là chuyện, một hôm đi rẫy, Hải phát hiện một chú sóc con bị bỏ rơi. Chú mới mở mắt, nằm trơ trọi trên một tấm thảm lá rụng ngay dưới gốc cây Kơ nia mọc ở góc rẫy. Hải gọi Hoài tới xem chú sóc. Tuy rất giận lũ sóc phá rẫy, nhưng thấy chú sóc con tội nghiệp này, Hoài nhẹ nhàng cầm lên, bảo: “Thân nó còn ấm. Ta phải tìm mẹ cho nó!”. Hải băn khoăn: “Mình cầm vào nó, có hơi người, không biết mẹ nó có nhận nó không?”. Hoài giải thích: “Loài sóc không sợ hơi lạ trên cơ thể con nó đâu, em ạ!”. Vuốt nhè nhẹ trên thân hình bé bỏng của con sóc, Hoài nói tiếp: “Bây giờ, mình đem con sóc này để vào chỗ vắng, xem mẹ nó có đến tìm không. Nếu sau hai giờ mà không thấy mẹ nó tới với nó, coi như nó đã bị bỏ rơi hẳn!”. Hải ngạc nhiên: “Sao anh rành về loài sóc thế?”. Hoài cười: “À, thời học sinh, anh rất thích nuôi chim, thú nhỏ nên hay tìm hiểu về chúng thôi mà!”. Hai anh em đem con sóc để ở một hốc cây cách xa rẫy rồi tiếp tục nhổ cỏ lúa. Chiều muộn, trước khi nghỉ làm, tới thăm con sóc, thấy nó vẫn nằm im, Hải liền lấy cỏ khô lót gùi, rồi nhẹ nhàng đặt con sóc vào.
Chuyện nuôi con sóc cũng thú vị làm sao. Nó nhỏ quá, chưa ăn được hạt, phải cho nó “bú”! Hải lấy ngô non giã, chắt ra những giọt nước trắng đục giống như sữa, cho nó mút qua cái ống sậy nhỏ do Hoài chọn lấy từ bãi sậy. Con sóc lớn dần, quấn quýt hai người. Tiếng kêu “sọc... sọc...’’ và những điệu nhảy như khiêu vũ của nó làm vui cả Đội. Tới khi thấy con sóc đã đủ lớn và hoàn toàn khỏe mạnh, Hải bàn với Hoài thả nó vào rừng. Hai người đem con sóc tới gốc cây kơ nia, đặt nó vào hốc cây, nhắn nhủ: “Sóc ơi, mày về với đàn. Nhớ bảo các bạn vào rừng kiếm quả thông, hạt dẻ, chứ đừng phá bắp của anh chị nghe!”. Con sóc nhảy qua nhảy lại một hồi, rồi phóc vào rừng. Thế nhưng, chỉ hai hôm sau, Hải đã thấy tiếng sóc kêu “sọc... sọc “ ở đầu hồi nhà bếp. Thấy Hải, nó nhảy xuống đất, chạy tới sát chân cô rồi nhảy vòng tròn, đầy hứng khởi. Hải vui mừng, reo gọi: “Anh Hoài ơi, sóc về thăm chúng ta đây này!”. Từ đấy, cứ cách khoảng dăm, bảy ngày là con sóc lại tới thăm, làm cho cả Đội thêm niềm vui, quên bớt những gian khổ, nhọc nhằn mà mọi người đang gắng vượt qua!
Khu Năm thực hiện tự túc lương thực cho nên việc sản xuất đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của cán bộ dân chính và cả bộ đội. Thực phẩm, phần lớn là tự túc, nhưng cũng có một số nhu yếu phẩm như vải, muối, mắm, đồ hộp, đường, mì chính... phải mua từ vùng địch lên. Đội sản xuất đã cạn các loại này, Hoài và Giáo được cử đi Kỳ Long (Tam Kỳ Quảng Nam) mua hàng...
Hai người rời Đội sản xuất, leo lên dốc, rồi đi theo con đường mòn, hướng về nóc Ông Chanh. Đây là một xóm nhỏ (nóc) của đồng bào dân tộc Ca dong, có hai chục gia đình, là đơn vị kết nghĩa với Đội sản xuất Làng Tuyên. Tới bên một con suối khá lớn, Giáo và Hoài dừng chân, ngồi nghỉ. Biết đây là bến nước của nóc ông Chanh, nơi linh thiêng của người Ca dong, hai người không lội xuống mà ra máng nước rửa ráy. Dòng nước trong lành của núi rừng thấm qua da, đem cái mát ngọt của thiên nhiên vào tận tim phổi, khiến hai người tỉnh táo, khỏe khoắn hẳn ra.
Hoài đã công tác ở nhiều vùng núi, tiếp xúc với nhiều dân tộc thiểu số. Có ý thức đặc biệt đối với việc học ngôn ngữ và tìm hiểu phong tục, tập quán của từng dân tộc mà mình tiếp xúc, Hoài có cách ứng xử phù hợp, được đồng bào tin yêu. Hồi ở Sơn La, một thân một mình lội suối, trèo đèo lên vùng cao Thuận Châu, nơi du kích địa phương bắn rơi máy bay, bắt sống phi công Mỹ, để viết bài, Hoài không hề bỡ ngỡ, lạc lõng. Khi ở lại làm việc tại một bản, Hoài ý tứ tránh quay lưng vào nơi thờ cúng của gia đình mà anh tạm trú, khiến chủ nhà phải thốt lên: “Cán bộ biết phong tục tập quán của đồng bào mình, mình rất quý cán bộ”, và tạo mọi thuận lợi cho anh ăn ở, làm việc. Trong khi ngồi làm việc với cán bộ xã bằng tiếng Kinh, Hoài nghe được đồng bào ngồi quanh bàn tán bằng tiếng Thái chuyện bắn rơi máy bay, bắt sống phi công, nhờ đó có nhiều tài liệu sinh động, quý giá phục vụ bài viết. Ở vùng đồng bào Ca dong cũng vậy, Hoài nói được tiếng đồng bào, cùng ăn cùng ở cùng làm một cách thuần thục theo đồng bào, hiểu rõ và tôn trọng những phong tục tốt đẹp của người Ca dong, được đồng bào coi như người dân tộc mình. Anh thường nghĩ: Giá như không có chiến tranh, cuộc sống được yên bình, no đủ, thì biết bao sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào sẽ được thực hành, làm cho đời sống thêm bao ý nghĩa. Hoài nhớ lại câu chuyện đã được nghe ở nóc Bà Bốn khi anh đang ở Ban: “Từ thuở xưa, có hai anh em mồ côi sống chung trên đỉnh núi Ngọc Linh. Một ngày nọ, khi đi săn được một con dúi, người anh bận việc vào rừng. Ở nhà, do sơ suất, người em đã để thú dữ ăn mất con dúi. Quay về nhà không thấy con dúi nữa, người anh nghi cho người em đã ăn hết thịt con dúi. Người em tủi thân bỏ nhà, đi về hướng mặt trời mọc để tìm đường sinh sống. Người anh ở lại lập làng gọi là người Xơ đăng. Người em dựng nóc, sinh con đẻ cái, gọi là người Ca dong. Từ đó có người Ca dong”. Hoài nghĩ, câu chuyện này cho thấy, như bao nhiêu dân tộc khác, người Ca dong rất tự hào với truyền thống dân tộc và bao giờ cũng muốn tìm về với nguồn cội của mình.
Chưa đến nóc, đã nghe tiếng lợn ủn ỉn. Bước qua bức rào thấp dùng để ngăn lợn chạy ra ngoài, Hoài và Giáo đi vào mảnh đất hơi mềm, ẩm ướt, chi chít vết chân lợn. Đang rúc rúc ủi đất ở góc rào là một con lợn to, mầu đen. Quanh đó, bầy gà tíu ta tíu tít mổ thóc. Vài năm gần đây, trúng mùa liên tiếp, đời sống bà con nóc Ông Chanh khấm khá hơn một chút.
Tối hôm ấy, Hoài được sống trong không khí ấm áp tình đồng báo. Người lớn, trẻ em nóc ông Chanh cùng Hoài, Giáo ngồi quanh bếp lửa, thăm hỏi, chuyện trò râm ran.
Ông Chanh nắm tay Hoài, nói:
- Cán bộ sắp xuống đồng bằng. Các cháu hát cho cán bộ Hoài, cán bộ Giáo mấy bài hát đi.
Các cháu ngoan ngoãn nghe lời Trưởng nóc, cùng nhau hát mấy bài hát mà Hoài đã dạy bấy lâu nay, khi anh có dịp ghé nóc, hoặc các cháu vào Đội đổi công sản xuất. Sau khi các cháu hát hết bài “Em nhớ Tây nguyên”, Giáo hoan hô rất to, rồi nói:
- Các em hát bài của người Kinh nhiều rồi, bây giờ các em hát cho các anh nghe bài hát của người Ca dong nào!
Các cháu im lặng, lúng túng. Ông Chanh gỡ bí cho các cháu:
- Bây giờ bác hát trước, các cháu noi theo nghe!
Ông Chanh cầm lấy cây đàn brooc-jiêng, thân là một quả bầu khô rỗng ruột và cần là một ống lồ ô dài, nho nhỏ, chỉ có hai dây. Brooc-Jieeng là loại nhạc cụ đơn giản, dễ làm, phổ biến, thân thiết với người Ca dong. Ở nóc này, hầu như nhà nào cũng có một chiếc đàn brooc-Jieeng.
Ông Chanh gẩy lên những nốt nhạc đơn giản, rồi hát. Ông hát bằng tiếng Ca dong, Hoài tự dịch cho mình như sau: “Hôm nay lễ hội ká-pêê-nau thật vui/ Là người Ca dong hãy về đây vui chơi cùng nhau trong hội mừng lúa mới/ Lúa ơi ta gieo hạt giống xuống đất/ Lúa hãy cho gốc to/ Gốc đều nhiều hạt/ Để năm nay mùa màng được hạt/ Lúa cho người Ca dong đủ ăn đủ dùng...”. Người đàn ông chừng năm mươi tuổi này gầy gầy, mặt xương xương, nhưng giọng hát lại vang, ấm lạ thường. Câu kết được ông ngân lên dài và vang như tiếng chiêng ngân, như tiếng cồng dội, lan tỏa khắp không gian làm ấm cả căn nhà, lay động trái tim Hoài. Ôi, ước mong của người dân, cũng chính là ước mong của Hoài, chỉ đơn giản, bình dị vậy thôi, mong một cuộc sống yên vui, no đủ với những sản vật do chính mình tạo ra!
Ông Chanh vừa dứt lời, thì H’Ly, một phụ nữ khoảng gần bốn mươi tuổi, mặc váy thuôn, áo không tay và đeo những chuỗi hạt cườm rất nhiều màu sắc, đứng dạy. Hoài ngỡ ngàng khi thấy chị cầm trên tay chiếc kèn máp xinh xinh, được làm từ cây lách, tấu lên những giai điệu dân gian cổ truyền. Tuy giai điệu đơn giản, những bản nhạc đó vẫn nói thay con người tình yêu đồng loại, yêu nương rẫy, bản làng, ngưỡng vọng thần linh. Xong, chị lại cất tiếng hát. Chị có giọng hát vang, cao vút: “Tôi ở vùng này, tôi sẽ đi bắt chồng ở làng khác/ Một là bắt chồng ở Trà My/ Hai là bắt chồng ở Trà Vân/ Dù mẹ có một đứa con vẫn thả mẹ/ Dù cha có một mình con vẫn thả cha/ Tôi đã theo chồng ở vùng Trà My không thể thả chồng/ Tôi đã theo chồng ở vùng Trà Vân không được thả chồng/ Hai đứa không bỏ nhau”. Nghe chị H’Ly hát, Hoài ngẫm nghĩ: “Bài hát có ý nghĩa thật. Nó cho người nghe hiểu phong tục của người Ca dong là cấm người cận huyết thống lấy nhau, và đã lấy nhau thì chung thủy suốt đời”.
H’Ly vừa dứt lời, Giáo đứng lên, hoan hô nhưng lại lắc đầu: “Chị ơi, các em mà cũng hát như chị, đi lấy chồng nơi khác, thì Làng Tuyên chúng tôi làm sao đây!”. Mọi người cười vang. Được thể, Giáo hào hứng: “Em H’Len hát đi. Anh thấy anh Hoài khen em hát hay lắm nhưng anh chưa được nghe. Bây giờ em hát đi!”.
H’Len bẽn lẽn đứng lên. Cô mới mười bảy tuổi, cơ thể tròn mẩy, gọn gàng trong chiếc váy dài đến chân và chiếc áo không có tay. Làn da nâu, đôi mắt tròn, sáng, giọng vang nhưng vẫn mềm mại, H’Len nói: “Em biết ít bài lắm, em biết hát gì bây giờ!”. Giáo được thể, giục: “Bài gì cũng được. Bài về tình yêu thì càng hay!”. H’Len đứng ngay ngắn lại, rồi hát bằng cả tiếng Ca dong và tiếng Kinh: “Em đang ở trên con dốc núi cao đợi anh dẫn bước/ Em đang ở bên con suối lớn nước chảy xiết chờ anh cõng qua”. Giáo khoái quá, đập hai tay xuống sàn, miệng liến thoắng: “Hay, hay, hay. Đợi anh, đợi anh cõng qua...”. Hoài bấm nhẹ vào đùi Giáo, ra hiệu không được thô lỗ với đồng bào. Thấy H’Len xấu hổ lùi vào sau tốp mấy chị phụ nữ, Giáo dừng lại, rồi nhìn Hoài, cười ngập ngừng. Hồi nãy, thấy Giáo cứ nhìn chằm chằm vào cánh tay trần và bộ ngực non trẻ của H’Len, Hoài cũng đã bấm vào đùi Giáo khá mạnh.
Trong khi cuộc vui diễn ra sôi nổi, thì H’Ly lột vỏ mấy củ sắn, rửa sạch, cắt khúc và dựng cạnh bếp lửa. Những khúc sắn trắng nõn được xếp vòng tròn, đón hơi lửa, nóng lên, khô dần, khô dần. H’Ly cứ chậm rãi xoay các khúc sắn để chúng tiếp xúc đều với lửa. Đần dần, các khúc sắn khô căng, chuyển từ mầu trắng bóng sang trắng đục, rồi vàng dần, vàng dần. Ông Chanh lấy lá lót tay, cầm một khúc sắn đã chín vàng đưa Hoài và một khúc khác đưa Giáo: “Cán bộ ăn đi!”. Hoài hiểu rằng bà con Ca dong ở đây rất chân thực, đã mời ăn là mời thực lòng; người được mời không được khách sáo. Trong đội sản xuất, anh em truyền tai nhau câu chuyện về cách mời của đồng bào như sau: “Mình mời thiệt đó mà. Nếu cán bộ không ăn, thì mình cũng cho con heo ăn thôi!”. Câu chuyện có vẻ hơi thô, nhưng nói lên được tấm lòng chân thực của đồng bào. Hồi chiều, trong bữa cơm, ông Chanh lấy từ trên gác bếp xuống một con chuột lớn đã được sấy khô cong, làm thức ăn mời Hoài, Giáo. Hiểu rõ ông Chanh đã đem món ăn quý giá để dành của mình ra đãi, Hoài và Giáo ăn trôi chảy món chuột sấy, mặc dù thịt của nó có mùi thum thủm, ôi chao là khó nuốt. Còn bây giờ, Hoài tận hưởng củ sắn thơm phức, ròn rụm từ ngoài vào trong, đến bánh mì Hà Nội cũng không thể ròn đều và thơm như thế.
Phải đến gần nửa đêm, mọi người mới ra về, để lại cho Hoài và Giáo những món quà đầy tình nghĩa: nào nếp, gạo, nào mè, chuối, để làm thức ăn trên đường xuống núi. Niềm vui từ buổi gặp mặt dân làng đem lại, khiến Hoài không ngủ được. Anh nhớ lại, có lần đã được dự lễ cúng máng nước, cúng mừng lúa mới tại nóc ông Xây. Hồi đó, vào lúc lúa đã từ nương rẫy đổ về đầy kho, nóc ông Xây tổ chức lễ ăn mừng lúa mới (Ká-pêê-nau) - lễ tôn vinh vị Thần lúa (Mó-pế) - nhằm cảm tạ trời đất, thần linh đã che chở, phù hộ cho dân làng một mùa vụ bội thu, một cuộc sống no đủ. Trong hoàn cảnh chiến tranh, máy bay Mỹ luôn luôn rình rập, cuộc sống còn biết mấy khó khăn, bà con trong nóc vẫn chuẩn bị chu đáo theo đúng phong tục truyền thống. Ông Xây có đầy đủ lễ vật để cúng, gồm: một ché rượu cần ngon, một con gà luộc chín, một con cá niên nướng, bánh lá dong, quả bầu rượu, trầu cau, chén thang trầm và đặc biệt là gạo lúa đỏ mới, sản vật của chính vụ lúa này. Dân làng vẫn có đủ trang phục truyền thống của dân tộc mình trưng diện trong ngày lễ: Nữ mặc váy thuôn, áo không có tay, đeo chuỗi cườm nhiều màu sắc ở cổ và chuỗi dây đồng dài quấn thêm ở thắt lưng, nam đóng khố, quấn chéo tấm choàng bằng thổ cẩm trên ngực. Ông Xây trịnh trọng khấn vái, mời các Yàng pui (Thần lửa), Yàng kong (Thần núi), Mó-pế (Thần lúa), Ka rá-tơní (Thần đất), Ka rá-mắt hy (Thần mặt trời), Ka rá-mó huýt (Thần nước), Két-ka rá (Ma tốt)... và ông bà, tổ tiên về dự lễ. Người đàn ông Ca dong hiền lành ngày thường, bỗng nghiêm trang, thiêng hóa, rầm rì thay mặt dân làng giao tiếp với thần linh. Cúng xong, ông Xây lấy tiết gà bôi lên ché rượu và cắm cần uống một ngụm, rồi mời dân làng cùng chung vui. Ông trao cần rượu của mình cho Hoài, bảo anh phải uống thực lòng. Lẽ ra, lúc này sẽ có đội cồng chiêng vừa đi vòng tròn quanh ché rượu, vừa diễn tấu những âm điệu truyền thống của người Ca dong, nhưng vì bom Mỹ nổ trúng ngôi nhà cất cồng chiêng, nên bây giờ bà con phải bỏ qua một nghi lễ linh thiêng, thân thuộc của mình!
Đêm. Rừng núi âm u phát ra nhiều loại âm thanh, tạo thành một bản nhạc giàu giai điệu. Tiếng lợn ủn ỉn, khìn khịt. Tiếng thở của trâu, bò phì phì. Tiếng gió đuổi nhau trên các ngọn cây xào xạc. Tiếng những cây lồ ô bị gió lay, cọ vào nhau kêu ken két. Nổi lên trên mọi âm thanh là tiếng đàn nước, với giai điệu không định hình, cứ binh ba binh boong, nghe sao mà thanh bình.
Hoài thấy Giáo cứ trở mình qua, trở mình lại, có lúc nhổm dậy, liền cảnh giác. Hoài được nghe anh em trong đội kháo nhau rằng Giáo đã làm một việc rất tệ hại, mà cứ kể bô bô, lấy làm tự hào lắm. Đó là lúc Giáo còn chưa thoát ly gia đình, lên căn cứ. Có một đám cưới trong làng, gần nhà Giáo. Lợn gà, rượu thịt bày biện tưng bừng, khiến cả chủ và khách vục đầu trong cuộc nhậu nhẹt. Riêng Giáo, anh ta không mải ăn nhậu mà chỉ chăm chăm vào cô dâu, một cô gái hai mươi tuổi, người chắc mẩy, ngực căng tròn. Khi thấy cô dâu tỏ vẻ mệt mỏi, rời cuộc nhậu và chú rể vẫn đang mải mê với rượu thịt cùng bạn bè, Giáo liền lẻn theo cô dâu. Cô dâu về phòng tân hôn, tắt đèn, lên giường. Giáo lách cửa vào. Thấy cô dâu thở đều đều, hơi thở nhẹ dần, Giáo nhẹ nhàng lên giường, đẩy khẽ. Cô dâu tưởng chồng về, nằm xích lại. Thế rồi, Giáo là người động phòng thay chú rể. Chuyện sau này thế nào, thì Giáo không kể, nhưng có điều chắc chắn là bây giờ anh ta vẫn chưa có vợ.
Hoài nằm im, thở nhẹ. Ở góc sàn bên kia, nơi, H’Len ngủ, cũng có tiếng thở nhè nhẹ, đều đều. Giáo cựa quậy một lúc rồi từ từ nhổm dậy. Hoài vội giật áo Giáo. Giáo giật mình, thì thào: “Tôi đi tiểu mà!”. Hoài cũng thì thào: “Đi thì đi. Chớ làm bậy!”. Đêm dần trôi trong bản giao hưởng đa dạng thanh âm của rừng, của làng, của cây cỏ và muông thú.
*
Sau hai ngày mải miết lội suối, băng rừng, Hoài và Giáo tới sông Trường. Đi trên đường chiến lược số 14, Hoài thấy dưới bờ sông có một cô gái đang vội vã bước đi. Trông dáng người, Hoài biết ngay là giao liên, những người có nhiệm vụ dẫn đường cho cán bộ, bộ đội đi theo các trạm để tới đồng bằng hoặc lên căn cứ. Từ đây trở đi, Hoài và Giáo phải đi với giao liên, vì đã vào vùng giáp ranh với địch rồi, cần đi đúng đường, nếu chỉ chệch đường một chút, là gặp nguy hiểm. Vừa gặp cô gái, Hoài vội hỏi: “Về trạm Hoà đi đường nào, đồng chí?”. Cô vừa ngước nhìn lên, trả lời: “Đi đường nớ!” vừa hối hả bước.
Sông Trường rộng nhưng nông, nước trong veo, hai bên bờ phơi ra những bãi cát trắng xóa hoặc những bãi sỏi, đá xam xám. Đoạn sông này là huyết mạch giao thông nối vùng căn cứ với vùng đồng bằng nên bọn địch rất chú ý. Hàng ngày, Moranh (máy bay trinh sát) của địch thay nhau lượn lờ, hễ thấy gì khả nghi là gọi pháo bắn tới vô hồi. Nhiều khi, chúng gọi máy bay trực thăng chiến đấu HU1A hoặc tàu rọ, một loại máy bay trực thăng nhỏ gọn, tới cắn xé. Dọc sông, đất đai đầy thương tích. Cây cối nát nhừ. Những nấm mộ còn nằm rải rác đó đây. Bộ đội lan truyền nhau một câu chuyện bi thương về trận oanh tạc đẫm máu của bọn máy bay HU1A cách đây một năm. Hồi đó, có một tiểu đoàn quân nghĩa vụ (bộ đội từ miền Bắc vào) hành quân dọc con sông Trường này. Anh em là lính trẻ, mới mười tám, đôi mươi, chưa có kinh nghiệm chiến đấu. Ở ngoài Bắc, anh em đương đầu với các loại máy bay phản lức, chứ chưa bao giờ tiếp xúc với máy bay trực thăng. Cho nên, khi hai chiếc máy bay trinh sát phát hiện đoàn người, bắn đạn khói xuống, anh em còn cười, bảo rằng bọn này ngớ ngẩn, bắn đạn xịt, không nổ, mà không biết rằng chúng bắn đạn khói chỉ điểm cho đồng bọn tới oanh tạc.
Chỉ một lát sau, hai chiếc HU1A bay tới. Nhìn hai “con chuồn chuồn” sóng đôi trên không, anh em lính trẻ chỉ trỏ, thách thức: “Xuống đây mà chơi!”. Lúc đó, chỉ huy mới truyền lệnh: “Tản vào hai bên bờ gấp!”. Không kịp rồi, máy bay đã bắt được mục tiêu. Hai chiếc trực thăng bay so le dọc hai bờ sông, nhanh chóng hạ độ cao và xả đạn xuống. Anh em bộ đội chạy tán loạn. Nhiều người đã vào được khoảng rừng hai bên sông. Nhưng còn không ít người lúng túng, chạy bết bác dọc sông. Có nhóm cụm lại ở tảng đá giữa sông, liền bị trúng một quả đạn rốc két trên máy bay phóng tới. Anh em bộ đội hầu như không kịp lấy súng ra tác chiến, phơi mình chịu những làn đạn điên cuồng... Máu bộ đội hòa vào nước sông, đỏ ngầu...
Mối nguy hiểm luôn luôn rình rập như vậy chính là nguyên nhân làm cho cô giao liên đi như bị ma đuổi. Cô di chuyển quá nhanh, gần như là chạy. Hoài, Giáo theo hút cô, bàn chân dường như không bám đá sỏi và cát ven bờ, song lại đạp nước bắn tung toé, khiến quần áo ướt mèm. Thật chết tiệt, cái gùi của Hoài bị sút quai, trễ sang một bên vai. Hoài đành ngồi xuống, cột lại. Thế là mất hút cô giao liên, hai người bị lạc mất gần một buổi đường. Tới ba giờ chiều mới tìm được được đường, vào trạm. Cũng may, lúc đó trời mới giáng cho một cơn mưa dữ dội, mà lại là mưa đá mới ghê chứ. Những viên nước đá to bằng đốt ngón tay rào rào rơi xuống, lóng lánh như những giọt nước mắt khóc cho cuộc đời của nó ngắn ngủi quá, vì chỉ một lúc nó đã tan biến thành nước và bị đất hút lấy hút để... Hoài lượm mấy viên đá cho vào miệng, cố tìm lại cảm giác mát lạnh và thú vị khi còn ở Hà Nội ăn kem, uống cà phê đá. Song vô hiệu. Mát lạnh thì có, nhưng chẳng thú vị gì. Nhạt nhẽo không thể tả được. Hết mưa đá, trời trút xuống một trận mưa rào ào ào như thác đổ.
Tối hôm ấy, Hoài và Giáo nghỉ lại trạm giao liên. Thời gian ở đội sản xuất, suốt ngày làm lụng trên nương rẫy, tối chín – mười giờ mới đi ngủ, cho nên mọi người ít có điều kiện tâm sự cùng nhau. Bây giờ, rảnh rỗi, hai anh em mắc võng gần nhau, vừa đung đưa vừa thủ thỉ tâm tình. Hoài nói với Giáo, mình tình nguyện đi B làm phóng viên chiến trường, nhưng cho tới bây giờ, qua hơn một năm rồi, vẫn chỉ quanh quẩn ở căn cứ, làm tin tức hoặc tham gia gùi cõng. Bây giờ, được giao nhiệm vụ chính là sản xuất, mong Giáo hướng dẫn thêm về cách thức gieo trồng. Giáo cũng rủ rỉ kể chuyện về mình. Quê Giáo ngay gần đây, một làng quê miền trung du không giầu sang nhưng cũng không đến nỗi khốn khó. Nhà đông anh em, Giáo sớm nghỉ học để giúp cha mẹ lao động sản xuất. Nhưng, đâu có được yên thân. Bọn ngụy lùng sục bắt lính, Giáo phải trốn chui trốn lủi mà cũng không thoát. Rồi Giáo bị bắt vào lính Bảo an (địa phương quân). Trong lúc bị đưa đi huấn luyện, Giáo trốn thoát rồi được dẫn lên vùng giải phóng, tham gia cách mạng. Giáo tâm sự thật rằng, mình tuy không cao lớn, nhưng khỏe, và nhu cầu “chuyện ấy” lớn lắm. Bị kìm nén mãi thế này, hai mươi tư tuổi rồi, không biết làm sao chịu được. Hoài cảm động vì sự chân tình của Giáo, chỉ biết khuyên Giáo là cố gắng giữ mình, nếu cần, thì lấy vợ đàng hoàng, chớ làm chuyện bậy bạ, hại đời người phụ nữ và làm bại cả danh mình.
*
Phải chờ trạm một ngày mới có trực – tức là có giao liên dẫn đường (ôi, chờ và trực). Hoài và Giáo vào đội sản xuất số Hai của Ban, ở ngay gần Nước Oa. Địch mới càn lên vùng này, để lại những dấu vết tàn phá khắp nơi: Một ngôi nhà của Đội bị đốt cháy, chỉ còn trơ khung đen xì. Kho thóc ở tận góc rừng bị phá tan hoang. Cây cối bị đạn gục đổ ngổn ngang. Một con trâu bị bắn chết, xác nằm bên bờ sông Trường, trương phềnh lên. Đội chỉ có bốn người, thì đội trưởng Cẩn bị thương, đang đi viện, Chi được điều về Ban, chuẩn bị đi công tác đồng bằng, Tiến lại đang ốm khặc khừ, chỉ còn mỗi mình cô Mai lủi thủi đi làm cỏ lúa.
Tiến ốm, là do ngâm mình trong nước quá lâu. Đúng hôm địch càn, Tiến đi lên cánh rừng phía Tây để hái măng. Tới con suối không tên, tình cờ thấy mấy con cá nổi lập lờ, ngắc ngoải, Tiến vội lội xuống vớt lên. Lúc sau, lại thấy mấy con cá nữa trôi xuống. Cứ như thế, suốt một buổi sáng, Tiến dầm mình trong nước suối lạnh ngắt vớt được một gùi cá đầy. Hóa ra, bọn Mỹ thả mấy quả bom nơi đầu nguồn, làm chết hàng loạt cá. Lại nghe nói, đó là bom lân tinh, rất độc. Nhưng thôi, mặc, cứ có cá cải thiện bữa ăn là vui rồi! Về nhà, chỉ vừa thả gùi cá xuống, đã thấy bọn địch đổ quân ngay bãi cát sông Trường. Tiến vùng chạy, trốn vào bụi cây rậm rạp gần nhà bếp. Thấy bọn lính cướp gùi cá, Tiến thẩm rủa: “Mặc cha chúng bay, nếu cá bị nhiễm lân tinh, chúng bay ăn mà mắc bệnh, thì đáng đời!”. Một cơn sốt kéo tới như giông bão, quật ngã Tiến. Người nóng như lửa. Đầu đau như búa bổ. Tiến nằm rên hừ hừ từ hôm địch rút đến nay.
Giáo lại bên võng, sờ đầu Tiến. Nó nóng như nồi rang. Giáo bảo: “Trúng nước rồi. Để mình lể sẽ hết!”. Giáo tìm quanh nhà, lấy một mẩu bát vỡ có đầu nhọn hoắt, cạnh sắc lẹm, ngồi bên Tiến. Tay trái bóp trán Tiến, tay phải Giáo cầm mảnh sành trích mạnh vào chỗ da nổi lên. Mấy giọt máu đen xì tứa ra. Giáo bỏ mảnh sành, lấy tay bóp nặn, máu đen tiếp tục chảy ra. Tới khi thấy có máu đỏ, Giáo dừng tay. Tiến mừng rỡ kêu lên: “Hết đau đầu rồi. Sao anh tài thế!”.
Gặp họa sĩ Hồng vừa kết thúc chuyến công tác Quảng Đà về. Sau phút hàn huyên, Giáo bàn, trong khi chờ trực, ba anh em cùng nhau giúp Đội khắc phục cảnh hoang tàn này. Là người đầy nhiệt huyết, Hồng tán thành ngay, nhưng bảo mọi người chờ một lúc, để anh đi đặt bẫy bẫy gà rừng. Hoài tò mò, đi theo xem Hồng làm thế nào. Ra đến bãi cát ở góc sông Trường, Hồng chỉ cho Hoài xem những vết chân gà dẫm đạp khắp nơi. Anh nói, đầy tin tưởng: “Bọn gà này đông đấy. Chúng chưa bị bẫy bao giờ, nên dạn lắm, thế nào mình cũng bẫy được!”. Nhìn mấy cái bẫy mà Hồng mang theo, Hoài thấy nó đơn giản quá – chỉ là một cái cần tre, giống như cần câu, nhưng nhỏ hơn, cùng với một sợi thòng lọng làm bằng dây cước. Hồng bảo: “Thôi, đặt bẫy phải bí mật. Ông về trước đi!”. Hoài đành quay về, không thỏa được trí tò mò.
Chỉ một loáng sau, Hồng đã về, cùng Hoài, Giáo khắc phục hậu quả của trận càn. Việc đầu tiên là dọn kho thóc. Bọn địch hồi này bị đánh tơi tả ở đồng bằng, thỉnh thoảng lại lên vùng căn cứ của ta cắn trộm. Do vậy, các đợt càn của chúng diễn ra chớp nhoáng, có khi chỉ trong một ngày, kéo đến hai ngày là cùng. Vì vậy, chúng không thỏa sức phá phách như trước. Cũng nhờ vậy, kho thóc không bị chúng cướp đi. Sau khi gạt hết lớp thóc cháy đen, ba người xúc số thóc còn lại vào thúng, đổ vào chiếc bồ lớn. Số thóc bị thiệt hại, mất khoảng một phần ba số mà Đội vừa thu hoạch. Ngôi nhà, đã bị cháy đen, không còn cách nào khắc phục, ba người đành củng cố ngôi nhà bếp – nó mới bị phá vách, chặt gãy hai cột. Giáo đi cắt tranh làm liếp. Hồng, Hoài đi chặt cây, thay hai cột nhà. Chỉ đến chiều, mọi người đã hoàn thành công việc. Hồng tuyên bố, đầy tin tưởng: “Tôi sẽ khao các bạn món thịt gà rừng!”. Hoài nài bằng được Hồng cho đi theo, Nhưng Hồng xua tay: “Không được, vẫn còn thời hiệu bí mật”. Hồng đùa vậy, rồi cười hề hề: “Thì đi, bí mật gì đâu! Ông sẽ thấy con gà trống to tướng mắc bẫy cho mà xem!”.
Ra đến gần bãi cát góc sông Trường, Hồng bảo Hoài: “Ông nghe xem, có tiếng gà không?”. Hồng lắng nghe, chỉ có tiếng nước sông chảy rì rào. Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Hoài, Hồng chê: “Ông không nghe thấy tiếng gà chứ gì? Thôi, ra bắt gà đi, một con gà trống cỡ bự nhé!”.
Đi thêm mấy chục bước, lội qua một lạch nước, bước vào bãi cát, Hoài sửng sốt nghe tiếng gà kêu quang quác. Hồng hất hàm, cười nheo cả mắt: “Thấy chưa?”. Quả nhiên, một con gà trống mắc bẫy, vừa nhảy tưng tưng, cố giật chân ra khỏi thòng lọng, vừa kêu hoảng loạn. Hồng nhanh chóng bắt con gà, gỡ ra khỏi bẫy, đưa cho Hoài: “Nắm chắc nhé, kẻo mà mất ăn!”. Hoài phục lăn Hồng, chàng họa sĩ này đã bẫy được gà, mà lại còn biết trước đó là gà trống, mới tài chứ! Hồng lò dò quanh bãi một lúc, rồi nói, vẻ tiếc rẻ: “Một con mái mắc bẫy, nhưng xổng mất rồi!”. Cũng tiếc con gà bị xảy bẫy, nhưng Hoài quan tâm đến cái tài đoán gà của Hồng hơn, nên chẳng xuýt xoa gì, mà hỏi: “Làm sao ông lại biết sẽ bẫy được con gà trống?”. Hồng lại cười hề hề, trông đến là hài hước. Chỉ vào con gà trống đang dãy giụa trên tay Hoài, Hồng giải thích: “Cái giống đực là hay nịnh đầm. Ông có để ý, bọn gà trống, khi kiếm được mồi, thường nhấp mồi lên, thả mồi xuống, túc túc gọi gà mái đến không?”. “À, đúng rồi, gọi đến cho gà mái ăn.” – Hoài tỏ vẻ cũng hiểu biết về thói nịnh đầm của các chàng mào đỏ này. Hồng lại cười tít mắt: “Đấy chỉ là bước một thôi. Bước hai mới là mục đích của hành động nịnh đầm!”. Hoài giương mắt nhìn Hồng, không hiểu. Hồng vẫn tít mắt cười, cái miệng trề ra, trông hiền lành nhưng lại pha chút hóm hỉnh: “Ông còn trẻ, chưa vợ, nên chưa biết “bước hai” là phải thôi!”. Nói tới đó, Hồng im lặng, như thách thức sự hiểu biết của Hoài, theo kiểu “Người khôn ăn nói nửa chừng/Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo!”. Vừa lúc ấy, con gà rừng kêu đến “quác” một cái, quẫy mạnh suýt tuột khỏi tay Hoài. Hồng cười tít hơn: “Hóng quá, tới mức suýt để sổng gà cơ à? Thôi, nói cho ông biết nhé: Bước hai là... là... tòm tem ấy mà! Vẫn chưa hiểu à? Tức là đạp mái chứ còn gì nữa. Hiểu rồi nhé!”. “Khà... khà... khà...”, Hồng cười một tràng dài. Xong, vẻ chu đáo, Hồng nói cặn kẽ: “Trong bầy gà rừng, con gà trống mạnh khỏe nhất, to lớn nhất là đầu đàn. Hắn thường đi trước, tìm kiếm, gặp mồi là gọi bọn gà mái đến. Thấy mồi mà mình đặt, dứt khoát là anh gà trống xông đến trước tiên. Và rồi, sập bẫy. Hè hè, Sập bẫy chứ không phải là đạp mái nhé. Cho nên, bẫy gà rừng, thì được con đầu tiên, bao giờ chả là con gà trống bự, rõ rồi chứ?”. Có lẽ hứng khởi quá, Hồng cười hề hề, dài giọng ra: “Tớ đây này, muốn tòm tem vợ, thì từ chiều, phải nịnh bà xã ra trò đấy!”.
Anh họa sĩ này tuy hơn Hoài có hai tuổi, nhưng nhà ở nông thôn, thuộc diện tảo hôn, đã có vợ và hai con. Vợ lớn hơn anh hai tuổi, chân chỉ hạt bột, ngày đồng ruộng, chiều tối bếp núc. Hồng bảo, vợ hiền như thế, đi đâu mình cũng yên tâm, chả sợ bị anh hàng xóm “biến thành phở”. Hoài đã được Hồng cho xem bức tranh “Nhớ quê”, Hồng vẽ cảnh vợ con bên giếng nước đầu nhà. Bức tranh bột mầu giản dị nhưng sinh động, nồng ấm, thể hiện tình yêu vợ con, quê nhà của tác giả sâu nặng vô chừng.
Chiều hôm ấy, mọi người được liên hoan một bữa cơm với thịt gà kho gừng, canh bí xanh nấu xương gà, hai món mà Hoài ưa thích và đích thân “đạo diễn”. Riêng Tiến, vì ốm, được dành riêng một đùi gà nấu với cháo đậu xanh, húp nóng, toát mồ hôi!
Cơm xong, Hồng đi hái lá vối về làm một nồi đậm đặc chiêu đãi mọi người. Anh họa sĩ – nông dân này rất tháo vát, năng nổ, việc gì cũng chủ động làm. Bên chiếc bàn đá lớn ở sân, mọi người ngồi uống bát nước vối đậm tình quê. Rồi Hồng giở cặp, cho mọi người xem những bức ký họa mà mình vừa vẽ trong chuyến công tác vừa qua.
Sau đợt càn, bao giờ cũng có những ngày yên bình. Bầu trời Trà Mi tịnh không một bóng máy bay, chỉ có những đám mây trắng lặng lẽ trôi. Cũng không một tiếng pháo nổ uỳnh oàng. Dòng sông Trường rì rào đổ nước về xuôi. Thỉnh thoảng vang lên tiếng chim cu hót “cúc cù cu... cu...”, điểm nhịp là tiếng chim bìm bịp khắc khoải: ”Bíp... bịp... bíp... bịp...” . Hoài ngồi sát bên Hồng, vừa xem tranh, vừa nghe Hồng kể về sự tích từng tác phẩm. Trải lên bàn bức ký họa một cô du kích đang giương súng lên ngắm, Hồng giải thích: “Đây là cô Ba, một du kích Điện bàn, mới mười tám tuổi, đã tiêu diệt năm tên lính Mỹ khi chúng đến gây tội ác ở Điện Ngọc!”. Với bức tranh một bà già da mặt nhăn nheo, nụ cười móm mém, Hồng nói: “Đây là má Tám, có bốn người con là liệt sĩ, nhưng má vẫn ngày ngày nấu cơm nuôi du kích!”. Thấy bức ký họa chỉ vẽ một hang đá, với tảng đá chắn trước cửa hang, Hoài hỏi: “Bức này có ý nghĩa gì?”. Hồng lắc đầu, mắt nhìn xa xăm: “Đây là một câu chuyện bi hùng, mình chưa nghĩ ra cách diễn tả!”. Hồng kể, đây là chiếc hang đá mà đài minh ngữ của Thông tấn xã Quảng Đà dùng làm nơi ở, làm việc. Hàng ngày, từ nơi này, phát ra những bản tin do phóng viên viết gửi về Thông tấn xã Giải phóng, qua điện đài. Một ngày, nơi này bị oanh tạc. Một quả bom rơi gần, nổ tung, bê nguyên một tảng đá lớn lấp kín cửa hang. Trong hang có hai điện báo viên. Họ vẫn sống, nhưng không thể nào thoát ra được. Anh em bên ngoài cũng không thể nào di chuyển được tảng đá để cứu đồng đội. Tảng đá bít kín đến nỗi không thể đưa thức ăn, nước uống vào hang. Qua từng ngày, tiếng kêu gọi trong hang đá lặng dần, lặng dần, rồi im hẳn! Hồng bảo: “Vẽ thế nào cho được cảnh ấy? Nghệ thuật nhiều khi bất lực trước chiều sâu của cuộc sống!”. Hồng còn đưa ra trên chục bức ký họa nữa, với đủ loại nhân vật, từ anh lính trẻ bộ đội chủ lực, tới một đoàn bộ đội hành quân, từ anh du kích bắn máy bay, tới đội dân quân chống càn, bức nào cũng sinh động, tràn đầy khí thế hào hùng tấn công và nổi dậy của quân dân Quảng Đà. Một điểm chung trong các bức ký họa mà Hoài nhận thấy, là gương mặt tất cả các nhân vật đều ngời sáng, biểu hiện một tinh thần lạc quan, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Xem tranh của Hồng, một hiện thực hào hùng được tái hiện sinh động, trong lòng Hoài lại bùng lên nỗi khao khát được xuống đồng bằng sống trong lòng dân, tham gia tấn công và nổi dậy, để có những bài viết xứng đáng góp phần cổ vũ cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.
Đêm ấy, Hoài và Hồng dường như không ngủ, nhỏ to đủ mọi chuyện. Hồng đi B trước Hoài, đã giúp đỡ Hoài rất nhiều, từ việc dạy cho cách buộc gùi tới cách phát rẫy hoặc chống trả những cơn sốt rét. Có lần hai người vào rừng chặt hũ đoác, Hoài hăng hái leo lên, hạ gục ngọn đoác xuống. Hồng bảo: “Làm như thế, sẽ rất khó róc vỏ cây lấy hũ. Thôi, bỏ đi. Chặt cây khác, nhớ vạc dần vỏ vào cho tới khi lấy được hũ đoác ra, chứ đừng hạ cây xuống!”. Dạo ở A9, Vượng vào Quân Khu, Hoài và Hồng ở cùng nhà, thường cùng Nga nghe chương trình sân khấu truyền thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam vào các tối thứ bẩy, mà vở kịch họ thích nhất là Tiền tuyến gọi. Đêm rừng lạnh lẽo, bụng người nào cũng lép kẹp, nhưng chẳng ai kêu than, mà chỉ chăm chú nghe câu chuyện diễn biến qua tiếng nói của các diễn viên. Họ thấy như được sống cùng các nhân vật kịch, thêm nghị lực vượt qua thiếu thốn, gian khổ.
Với Hoài, giọng nói ấm áp, nụ cười vô tư, hành động chân tình, chu đáo của Hồng chính là nguồn động lực lớn giúp anh mau chóng làm quen, đứng vững, rồi vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến trường, giữ vững tình yêu nghề nghiệp và khát vọng cống hiến. Kỷ niệm đáng nhớ nhất với Hồng, là chuyến đi Quảng Đà. Hồng và Hoài được cử xuống gặp đoàn của anh Quyền để nhận một số phương tiện nghiệp vụ do cơ quan ngoài Bắc gửi vào. Nhận đồ đạc, nghỉ một ngày, sáng hôm sau Hoài và Hồng rủ nhau xuống Sơn Phúc mua một ít hàng. Hai người chỉ có trách nhiệm xuống Quảng Đà, nhận vật tư, rồi về. Song muốn thấy đồng bằng một chút nên họ liều đi. Đường xuống dần, trườn qua những đồi lúp xúp, cây cối thưa thớt. Qua một quãng rừng, Hoài thấy có mấy hố bom lớn, dấu tích của lũ máy bay B57. Cây cối tơi tả. Đất đai nhừ nát. Bên đường có những mảnh quần áo rách và ở một vài đám đất có nhặng bu đến - từ đó mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Chắc có anh nào xấu số bị bom xé vụn ra, rải xác khắp nơi. Hai người tiến gần đến vùng giáp ranh – nơi tiếp giáp giữa vùng giải phóng và vùng địch tạm chiếm. Có những người mang hàng đi ngược chiều với hai người. Họ cho biết tình hình rất căng. Bọn biệt kích ở núi Chóp Nón luôn luôn kiểm soát con đường vượt ranh. Hễ phát hiện người là chúng bắn đạn súng cối đến hoặc gọi pháo nã tới. Do vậy phải vượt ranh vào sáng tinh mơ hoặc sẩm tối. Hồng và Hoài định tranh thủ vượt ranh buổi trưa, tối đó mua hàng và sáng sau về sớm. Ai cũng ngăn họ: chớ nên liều lĩnh. Hoài và Hồng bàn cãi mãi: đi hay không đi. Một mặt mong được thấy đồng bằng, một mặt sợ xảy ra chuyện gì sẽ bị kỷ luật. Vừa bàn cãi vừa đi xuống. Sắp tới con đường dưới chân núi Chóp rồi. Đường vắng ngắt, không một bóng người, chỉ có những hố bom, những thân cây đổ ngổn ngang. Hoài bỗng nghe hai tràng súng máy nổ đanh, ròn. Ai bắn đấy? Hồng bảo hình như du kích bắn máy bay. Một lúc sau, Hoài thấy một cậu bộ đội trạc mười tám mười chín tuổi tay xách dép hớt hải chạy tới. Cậu ta cho biết mình vượt ranh, bị bọn biệt kích phát hiện. Chúng không nã cối mà bắn đạn thẳng tới. May mà không trúng. Hoài và Hồng dừng lại bàn bạc: thôi, quay lên kẻo chết uổng mạng, lại bị kỷ luật. Nếu là đi công tác thì dù ác liệt đến mấy cũng phải vượt qua, đằng này lại tự ý đi mua hàng...
Hai người quay lại, xa dần gò Đu. Tại đó có xác hai người bị biệt kích Mỹ bắn chết cách đây đã lâu. Không ai chôn cả, giờ đây hai cái xác chỉ còn là hai bộ xương, lồng hai bộ quân phục mục nát.
Chuyến đi ấy, tuy không có điều kiện vẽ tại chỗ, nhưng ấn tượng sâu sắc đã giúp Hồng vẽ nên mấy bức ký họa sinh động về gò Đu, về chiến sĩ vượt ranh. Tình yêu nghề nghiệp, khát vọng cống hiến của người nghệ sĩ lúc nào cũng rừng rực trong Hồng, giúp anh vượt qua mọi khó khăn một cách nhẹ nhàng, và cứ mỗi lẫn gặp khó khăn, anh lại có tác phẩm mới.
*
Bắt đầu theo trạm đi. Giao liên dẫn đường là cô Xuân. Thấy Xuân đi hơi cà nhắc, Giáo nói với Hoài: “Chắc cô giao liên này bị tiêm thuốc ký ninh mà thành tật!”. Giáo còn rì rầm kể về các trận sốt rét ác tính, việc tiêm thuốc ký ninh, tưởng là đơn giản mà rất nguy hiểm. Bởi vì, loại thuốc này phải tiêm vào mông; y tá phải tìm đúng huyệt để tiêm, nếu mũi kim chệch đi một chút, chạm vào dây thần kinh, người bệnh sẽ gặp nguy, nhẹ thì bị tập tễnh chân, như cô Xuân này, nặng thì bị liệt cả chân! Mải nói chuyện, hai người bị tụt lại khá xa. Đang ngơ ngác nhìn quanh, đã nghe tiếng Xuân hú gọi phía trước - cô kiên nhẫn chờ chứ không bỏ khách như cô bữa trước.
Khi đi từ trạm hai lăm xuống trạm hai tư, Hoài và Giáo theo một giao liên nhỏ. Đó là Ba, em mới chừng mười ba, mười bốn tuổi. Khi ngồi đợi giao trực, Hoài được nghe cô giao liên ở trạm hai lăm kể rằng Ba bé xíu thôi và còn ngây thơ lắm. Có lần, dẫn một số khác, thấy khách đi quá chậm, hay nghỉ, Ba khóc lóc, van nài: “Các chú ơi, đi nhanh lên, không quá giờ, trạm trên bỏ trực, con bị phê bình đấy!”. Hoài hình dung Ba yếu đuối lắm. Song không phải vậy, Ba ở trước mặt Hoài đó: vui tươi, nhanh nhẹn. Em dẫn đầu đoàn người, đầu đội mũ Giải phóng, lưng mang bao bột mì đựng công văn, vai còn khoác một cái túi giúp một chị đi sau. Ba chào mọi người bằng nụ cười rất tươi. Gặp lại mấy anh quen, Ba liến thoắng: “Ôi, anh Thoại sao ốm nhom vậy? Anh Lang có nặng, sớt bớt đồ tôi mang cho!”. Và Ba mang bớt một số vải cho Lang. Đi đường, Ba luôn chuyện trò. Đủ thứ chuyện ngộ nghĩnh: “Chui, mấy trứng gà rừng cho ấp nở ra mấy con gà đen thui như Mỹ đen, trông phát phiền!”, “Con Liên mới đi đồng bằng về, dẫn theo mấy đứa chút chun!”...
Sáng hôm sau, Liên dẫn đoàn đi. Liên mới chừng 16 tuổi, nước da hơi xanh, yếu và nét mặt có gì đó hơi già dặn, khắc khổ của người phải lo nghĩ quá sớm. Liên bảo đoàn đi trước vì em còn phải đi nhận hàng. Liên dặn: “Các anh ráng đi sớm, đi nhanh qua mấy bãi trống ven sông nghe!”.
Đoạn đường này địch dùng máy bay B57 thả bom cày xới liên tục. Thỉnh thoảng lại gặp vài hố bom - thường là hai hố một chỗ. Nhiều hố bom trúng giữa đường khiến đoàn phải đi vòng, luồn trong cây cối mà đi.
Gần trưa, Moranh (Máy bay trinh sát) quần dữ. Đường đi qua rừng non, theo suối nên nhiều chỗ trống trải. Liên luôn nhìn lên bầu trời quan sát máy bay và ra lệnh cho đoàn: “Nó tới đó, đứng im”, “Nó quần đó, rúc sâu vào bụi”, “Đi nhanh!”... Cả đoàn răm rắp làm theo lời Liên như theo lệnh người chỉ huy vậy.
Ăn cơm trưa xong, Liên tạm biệt đoàn của Hoài để dẫn đoàn khách khác quay về trạm trên. Liên nói: “Chào mấy anh nghe!”. Rồi thoăn thoắt bước đi; nhưng, có vẻ như cảm thấy lời chào của mình cộc cằn quá, Liên quay lại, nói thêm: “Tôi chào rứa đó!”và bắt tay từng người rồi mới đi tiếp. Những lời nói của Liên có gì hơi cộc cằn đôi chút và có nhiều khi không hợp với một cô gái ở lứa tuổi Liên. Song, Hoài không cho Liên là một con người cộc cằn. Khi Liên nói: “Tôi chào rứa đó!” và cười cười thì Hoài hiểu rằng em đang bối rối trước những câu nói của chính mình. Chắc em cũng muốn nói những câu tế nhị hơn song tìm không ra từ ngữ thích hợp. Ở những nơi ác liệt như thế này, người ta quen nói ngắn, gọn rồi. Khi máy bay địch quần lượn, bắn phá thì giao liên làm sao có thể nói những câu dài dòng, văn vẻ ngoài mấy câu: “Dừng lại!”, “Núp kín nghe!”, “Chạy nhanh!”, “Nằm xuống!”... Nhưng chính trong những câu cộc lốc đó, Hoài lại thấy chứa chất biết bao tình cảm rộng lớn, sâu sắc. Những lời nói xuất phát từ đáy lòng thương yêu anh, che chở, bảo vệ anh đó!
Càng đi xuống gần đồng bằng, tình hình càng căng hơn. Địch càn ở Kỳ Yên đã gần tháng rưỡi rồi. Quân của chúng chà xát khắp nơi: xóm Mới, Nhà thờ, Dương Bông, Bầu Tre... và sáng nay chúng lại đổ quân ở Danh Sơn - nơi đoàn định đi qua.
Tình hình căng thẳng, nhưng nhờ giao liên rất thạo đường, lại có mấy giao liên thuộc tuyến này cùng đi mua hàng, cho nên mọi người đỡ lo lắng. Sang, một thanh niên khoảng hai ba, hai bốn tuổi, có dáng người to, khoẻ, da ngăm đen, là linh hồn của đoàn. Sang thuộc đường và rất xông xáo. Ít nói, nhưng hay nói vui, cởi mở, Sang thu hút được tình cảm của Hoài ngay từ đầu. Tay cầm chắc khẩu AK báng xếp, Sang luôn đi đầu bám đường.
Đi một hồi, phía trước mặt đã là con sông Kỳ Yên. Nơi này là một thung lũng khá phẳng và rộng, cây cỏ thấp, thưa. Đoàn người phải đi tách ra xa nhau vì ở đây dễ gặp địch. Chúng mới rút khỏi nơi đây. Giấy tờ, sách báo lố lăng, lon đồ hộp còn vứt bừa bãi. Cả đoàn vừa thận trọng vừa khẩn trương vượt qua bãi trống đó. Nắng chói chang, bầu trời cao rộng, in hình mấy cái trực thăng phía xa. Mọi người lội ào qua khúc sông cạn, nước tới mắt cá chân. Đạp nước bắn tung toé, ướt cả hai ống quần. Rồi vượt qua một bãi cát lẫn đá sỏi. Lại lội qua sông. Đoạn này nước chảy xiết. Khi Hoài vừa định bước chân trái lên một hòn đá to thì nước cuộn tới cướp phăng chiếc dép. Bỏ vậy mà đi thôi. Đi khỏi bờ sông một quãng, đoàn gặp một số dân. Họ ngồi tản mát trong các bụi cây, quanh đó là một vài thứ đồ đạc dùng hàng ngày. Vừa lúc đó thì có tiếng máy bay trực thăng phành phạch. Mọi người vội tản đi, người rúc vào bụi cây, người chui xuống hầm. Hoài cùng Giáo núp sau một bụi cây, nó được chắn bởi một khúc gỗ khá to. Giáo thì thào, vẻ thông hiểu: “Tiếng động cơ phành phạch thế này, là máy bay sắp tới rồi đó!”. Quả nhiên, từ hướng Nam, một chiếc máy bay trực thăng bé tí xuất hiện, bay dọc sông. Giáo lắng nghe một chút, rồi giải thích cho Hoài: “Tàu rọ đấy. Nó là loại máy bay nhỏ tí, một phần vỏ được làm bằng nhựa trong suốt, khiến ở dưới nhìn lên thấy rõ cả phi công. Chỉ có hai người điều khiển, tàu rọ luồn lách dễ dàng, có thể len cả vào các bụi cây để lùng sục. Khi cần, nó cũng có thể đỗ ngay xuống, bắt sống hoặc hạ sát đối thủ”. Giáo vừa dứt lời thì kêu “Ối!” một tiếng. Anh nhìn thấy có hai người khoác ba lô từ bờ sông bên kia chạy ra bãi cát. “Chết rồi, gọi họ quay lại!” – Hoài cũng nhìn thấy như Giáo, vội kêu lên và định nhỏm dậy. Giáo kéo tay Hoài: “Ngồi im, không thì lộ hết, chết cả bây giờ!”. Hai người khoác ba lô, chắc là bộ đội, vừa chạy tới mép nước của con sông, thì chiếc trực thăng bé tí kia cũng lao tới. Nó bay thấp tới nỗi Hoài nhìn rõ hai thằng phi công ngồi ở buồng lái, trong đó có một thằng ghì chắc khẩu súng được gắn bên thành tàu rọ. Giáo bám vào vai Hoài: “Gay rồi. Hai đồng chí kia...”. Hai anh bộ đội lúc này mới thấy chiếc máy bay, liền quay người, định chạy về phía rừng cây. Không kịp rồi. Một loạt đạn đại liên đã găm chi chít trên bãi cát, găm vào người hai anh. Một anh bật ngửa, nằm im. Một anh ôm chân, ngã lăn quay. Chiếc tàu rọ hạ xuống từ từ. Hoài dán mắt nhìn, lo lắng. Lúc này, du kích, bộ đội và cả đoàn giao liên có Sang, đã di chuyển vào phía trong, chẳng có cây súng nào ở đây mà hạ trực thăng. Hoài tức lắm, nói nhỏ với Giáo: “Có mỗi một chiếc trực thăng con tí. Nó dám hạ xuống, coi thường mình quá!”. Giáo thì thào, giảng giải: “Không chỉ có nó. Còn bọn khác!”. Quả nhiên, sau lời nói của Giáo, có tiếng động cơ máy bay to dần, to dần. Trên bầu trời, xuất hiện hai chiếc máy bay HU1A quần lượn, yểm trợ cho thằng tàu rọ. Chỉ lát sau, chiếc tàu rọ cất cánh bay lên. Trên bãi cát, chỉ còn một xác người nằm bất động. Đồng chí bộ đội kia, chắc là bị thương, đã bị địch bắt đưa về căn cứ của chúng rồi! Sau một hồi im ắng, phía bên kia sông có ba người chạy ra. Họ loay hoay một lúc rồi khiêng xác đồng đội, lội qua sông...
Hoài và Giáo tới đầu thôn một xã Kỳ Yên. Ở đây, đồng bào trồng sắn trên luống cao, to, rất đẹp, sạch cỏ. Lác đác có những đám ngô, đậu. Vài rẫy lúa. Có rẫy lúa bị nhiễm chất độc hoá học cháy vàng. Bọn Mỹ hồi này rải chất độc với diện rất nhỏ chứ không tràn lan như trước, nhưng toàn nhằm vào nương rẫy. Lũ giết người này vô cùng thâm hiểm!
Đi loanh quanh một hồi, đoàn gặp rất đông người - phần lớn là cán bộ, bộ đội. Họ ùn lại ở một đám rừng non thưa thớt, đứng ngồi lộn xộn. Họ cho biết còn phải chờ du kích bám đường mới đi được. Đoàn cũng ngồi lại. Mỏi quá, ngồi lê la trên cát, trên cỏ. Thỉnh thoảng, vài chiếc trực thăng lại quần lượn trên đầu, khiến mọi người phải nép vào bụi cây. Có những tiếng pháo, tiếng súng liên thanh, tiếng đạn cối nổ rải rác đó đây. Rồi đi, đúng là lối đi “bám”. Có một số đi trước dò đường. Rồi mọi người theo sau, mỗi người đi cách xa nhau một quãng khá xa. Súng đạn sẵn sàng. Đi chậm rì. Thỉnh thoảng phải dừng lại nghe ngóng, đợi chờ. Thỉnh thoảng vượt qua một quãng đồng trống, phải chạy cho nhanh, đồng thời phải giữ khoảng cách cho thưa nhau. Với cách đi như vậy, đoàn người vượt qua nhiều quãng đồng trống, nhiều khu nhà dân. Nói là khu nhà dân, thực ra chỉ là từng cụm nhà thưa thớt. Nhà, thực ra là những túp lều nhỏ, dựng tạm bợ che mưa nắng cho hầm. Có mấy ngôi nhà bị đốt cháy, tro còn nóng. Hầm cũng bị bọn giặc quẳng lựu đạn công phá cùng lựu đạn lân tinh xuống khiến sập lở hoặc tanh lợm.
Đường Hố Nước, Bầu Tre có địch, mọi người phải vòng qua đường Danh Sơn. Lúc này đi rất nhanh, gần như là chạy. Vượt qua vài khu ruộng. Ở một bờ ruộng, vàng chóe những vỏ đạn súng máy AR15 - chứng tỏ bọn Mỹ đã có mặt ở đây và chắc rằng chúng đã xả đạn không thương tiếc về mục tiêu nào đó. Trời nhập nhoạng tối. Trên trời, vài chiếc máy bay trực thăng vận tải bay nặng nề, in bóng đen sẫm, to xù và nổ máy ầm ĩ. Hoài thấy cổ đặc lại vì khát nước. Đạp qua vài thửa ruộng đầy cỏ, sình bùn. Nhập vào đường Danh Sơn. Con đường này tương đối lớn, chạy qua những khu đồi sim thấp và toàn đá sỏi. Chân Hoài không dép, đạp lên đó đau ê ẩm. Tuy nhiên, phải ráng chịu đau mà đi cho nhanh. Đi như chạy trong bóng tối nhập nhoạng. Đường chỉ hiện ra mờ trắng dưới chân. Thỉnh thoảng lại bước hẫng xuống một hố nhỏ hoặc vấp vào mô đá, điếng người. Hoài chẳng thèm suýt xoa, cứ cắn răng mà bước tới. Sang đi đầu. Mọi người đi sau, im lặng hoặc chỉ nói chuyện nho nhỏ.
Chợt Hoài nghe tiếng đài văng vẳng ở phía đồi trước mặt - đài Tiếng nói Việt Nam. Như vậy là không có địch. Mọi người mạnh dạn bước tới. Băng qua một khu ruộng nhỏ. Lội qua một con sông - lội mò mẫm, chẳng biết nông sâu ra sao. Lại dò dẫm bước lên bãi cát sỏi. Tiếp đó, qua một con sông nhỏ. Rồi chui vào một thôn xóm. Ở đó im lặng như tờ. Tối như bịt mắt. Người đi trước bỗng sụp xuống một cái hầm. Xì xào lộn xộn một lát rồi lại đi. Hoài cứ bám theo người đi trước mà tiến, chẳng rõ đường xá quanh co ra sao. Rồi bỗng thấy ánh đèn dầu hắt ra từ một ngôi nhà. Hoá ra đó là trạm giao liên. Cả đoàn bước vào. Những người trong nhà đang ăn cơm. Lúc này đã gần tám giờ tối. Nhà thật đơn sơ, không phên vách, không bàn ghế. Dưới nền nó là một căn hầm rộng, có thể cột võng được. Trạm trưởng hướng dẫn Hoài và Giáo lên nhà trên ngủ. Ngôi nhà đó đã bị pháo bắn sập, người ta đã dỡ mái, vách đi và cắm 4 cây lớn vào chỗ 4 cây cột để nguỵ trang. Tuy nhiên, cái hầm vẫn tốt. Trời nóng như nồi rang. Muỗi vo ve, vo ve, ùa vào đốt. Phủ bọc võng vào, nóng vô kể. Mà hất ra thì muỗi đốt, không chịu được. Hoài đành phải đưa võng qua lại. Cánh võng chao nghiêng tạo thành làn gió nhẹ, xua bớt lũ muỗi đi. Rồi Hoài cũng thiếp đi trong cái mệt nhọc. Đêm nay im tiếng pháo.
Sáng dậy, tuy chẳng đi đâu, mọi người cũng phải nấu cơm hai bữa từ sớm. Ăn cơm xong rồi cột bao đựng đồ dùng gọn gàng. Và cứ ngồi đó đợi. Trạm cũng làm như vậy. Những đồ dùng không sát với thân thể lắm như con rựa, thùng nước.v.v. thì quẳng bừa ra bụi bờ, bãi cỏ. Đó là một kiểu nghe ngóng xem địch có càn không, nếu có thì có thể lánh kịp và không để đồ đạc cho địch phá.
Hoài ngồi im lặng, lắng nghe. Có tiếng động cơ xe tăng rú phía xa xa. Đó là đồn địch. Vài chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài chiếc tàu vận tải bay qua bay lại. Có những tiếng pháo điểm cầm chừng. Xa xa có những tràng súng liên thanh nổ. Như vậy là buổi sáng yên lành. Ăn cơm trưa rồi có thể đi làm mọi việc cần thiết.
Hoài và Giáo đi Kỳ Long mua ít hàng. Phải chú ý đi nhanh qua những chỗ trống để tàu rọ khỏi thấy, khỏi hạ xuống bắn chết hoặc bắt sống. Tuy vậy, lúc này không có tàu rọ mà trên trời chỉ có một chiếc mô ranh hai thân lượn vòng tuốt trên cao và dùng loa cực đại để phát đi lời chiêu hồi – kêu gọi quân “cộng sản” về với “chính nghĩa Quốc gia”. Tiếng nói ve vãn bị át đi một cách thảm hại bởi tiếng ù ù của động cơ máy bay.
Mọi người lao ngang một con đường lớn - nó chạy về phía đồn Chóp Chài. Vết xe hằn rõ trên đường. Vượt qua những bãi trống. Ở đây, cỏ tranh bị địch đốt cháy trụi. Bình yên một cách kỳ lạ. Băng qua một cánh đồng lúa, Hoài, Giáo lọt vào vùng bốn Kỳ Long. Xóm nhà thưa thớt, ít dân. Trẻ con ở đây quần áo mầu sặc sỡ. Nhiều người la hét gọi hai người đi nhanh hoặc núp vào bụi vì có địch ở Dương Tranh, cách xóm đó vài phút đi bộ. Từ ngọn đồi đó, địch có thể thấy rõ và bắn trúng hai người. Lúc này, Hoài nghe thấy tiếng mìn nổ ở phía Dương Tranh, đất bụi bay mù mịt. Rồi một quả đạn mầu của địch nổ, tung lên trời một cụm khói mầu tím. Ngay sau đó, có 2 chiếc máy bay HUIA bay tới, lượn quanh quả đồi. Hoài thấy cửa máy bay mở toang. Một chiếc rà sát rồi hạ ngay xuống đám mù tím và cất cánh lên sau đó một lúc. Chiếc kia cũng làm như vậy.
Hoài, Giáo đi tìm hàng để mua. Rất hiếm và rất đắt. Người bán đòi gần 600 đồng (bằng 30 đồng miền Bắc) một bao gạo (nặng 6 kg) - nếu tính ra tiền miền Bắc là 5 đồng một kg, gấp hơn 10 lần gạo ngoài đó! Thị trường tư bản thật kinh khủng.
Lại nghe tiếng mìn nổ, thấy khói mù đỏ và hai máy bay trực thăng xuống, lên. Đồng bào bảo rằng bọn Mỹ mới lên đồi đó, bị vấp mìn của du kích và phải gọi máy bay tới chở những tên chết, những tên bị thương về căn cứ.
Quẩn quanh mua hàng, trời đã tối. Hoài, Giáo nấu cơm ăn - thứ gạo máy trắng muốt mua ở vùng địch chuyển ra. Ngồi giữa sân mà ăn cơm - nhà ở đây bị địch đốt cháy trụi, bà con chỉ dựng mấy túp lều chật chội, tấp mấy tấm tranh vào tạm bợ để dễ vứt ra bụi mỗi khi địch càn đến. Đang ăn cơm, mọi người giật mình vì những tiếng súng nổ loạn xạ. Đạn bay veo véo trên đầu, đỏ lừ. Đó là đạn do địch ở trên xe bắn tới. Tầm đạn đi hơi cao. Lại có tiếng súng nổ từng phát một, chắc chắn, ở phía gần nơi phát ra tiếng nổ đầu tiên - đạn của du kích “bia” (bắn tỉa) Mỹ Nguỵ.
Hoài vào một ngôi nhà nhỏ mua gạo. Trong nhà chật ních người - toàn là cán bộ, miền Bắc có, miền Nam có. Một cô bé chừng mười bốn, mười lăm tuổi đang bán gạo. Cô bé nói rằng chỉ còn một ang thóc thôi. Hoài vội bảo “Mua gạo chứ ai mua thóc làm gì?”. Cô bé giải thích: “Ang thóc tức là nửa ang gạo chứ không phải là thóc chưa giã”.
Khoảng tám, chín giờ tối, Hoài và Giáo ra về. Không thể ở lại đây qua ngày sau, vì xe tăng địch có thể càn lên rất sớm. Dấu vết của nó còn hằn lên đó: chằng chịt trên các thửa ruộng lúa khô nước. Lúa đang thì con gái, bị hạn, xơ xác, bị xe nghiền nát. Sang vẫn cắp AK đi đầu. Giáo lăm lăm súng ngắn đi thứ hai. Hoài đi liền sau Giáo. Trăng lờ mờ. Khi đi qua ruộng, họ không dám đi theo con đường mờ trắng mà phải đi ven nó vì sợ địch ở phía quả đồi gần đó phát hiện. Khi đi khỏi khu ruộng, thấy những bóng đen lố nhố phía trước, Sang ghìm súng, khẽ hỏi: “Ai?”. Có tiếng đáp khẽ: “Chúng tôi!”. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Không phải địch mà là anh em đi về, thấy rợn quá, đang chần chừ ở đó, chờ người cùng đi lên. Lại bám đường đi. Nhiều khi phải nép vào bụi hoặc nằm rạp xuống đường nghe ngóng từng động tĩnh nhỏ. Rồi vượt qua đường xe. Con đường này chạy về đồn Chóp Chài - đi bộ mất chừng 20 phút là tới đồn thôi. Vượt vào dãy đồi bát úp, cây cối lúp xúp và đường lạo xạo đá sỏi. Vấp liên tục và luôn đạp lên những hòn đá sắc cạnh, đau điếng. Khuya mới về tới nhà. Hoài, Giáo lại cột võng trên nóc hầm, trằn trọc trong cái nóng hầm hập, trong tiếng vo ve của muỗi và trong tiếng pháo cầm canh.
Trưa nay, ăn cơm xong, Giáo đi Kỳ Long, còn Hoài ở nhà giữ đồ đạc. Giáo đi một hồi lâu thì Hoài nghe mấy tràng súng máy nổ phía đường cái gần thôn Kỳ Qúy. Rõ ràng là tiếng súng địch bắn. Hoài bồn chồn không yên. Giữa lúc ấy, Giáo chạy về, nói gấp: “Phước hy sinh rồi!”. Hoài sững người vì bất ngờ quá. Phước là trạm trưởng trạm giao liên vùng dưới - giáp thị xã, đi chỉnh huấn về. Trưa nay, Phước cùng đi xuống với đoàn của Giáo, Sang. Hồi nãy, Phước mang súng AK đi đầu, tới đường cái thì gặp địch phục kích. Chúng bắn Phước gãy chân. Ngã xuống rồi, Phước còn dùng súng AK bắn lại bọn địch. Chúng ném tới một trái lựu đạn làm nát cả mình mẩy anh. Sang cũng dùng AK bắn lại mấy loạt rồi mới chịu chạy. Cũng còn may, đoàn có tới gần chục người, đi liền nhau, gặp đạn địch bắn loạn xạ mà chỉ một ngưòi bị hi sinh.
Tối, Hoài vác cuốc cùng mấy anh em trong trạm hai bốn đi chôn Phước - người ta đã khiêng Phước về để gần nhà ông Phán. Trời tối thui. Trong ánh đèn dầu nhập nhoạng, Hoài thấy xác Phước được cột dọc theo một cây tre, đặt nằm dài dưới bãi cỏ. San - cô giao liên của trạm hai bốn - soi đèn sát mặt Phước rồi thốt lên: “Trời ơi, tội quá anh Phước ơi!”. Hoài không khỏi bùi ngùi xúc động. Mới đó thôi, Phước còn sống vui tươi, khoẻ mạnh. Phước cao và gầy, hàm răng khấp khểnh, miệng rộng, khuôn mặt nhỏ, xương xương. Phước rất hay cười, nụ cười rất tươi và cởi mở, dễ chiếm được tình cảm của mọi người. Sáng nay, Phước còn đứng nói chuyện với anh em. Sang trách Giáo là không xin đôi dép của một nông dân bị chết vì trúng lựu đạn về cho Hoài. Hoài bảo: “Thôi, làm như thế, đồng bào họ nói cho. Nếu như anh em mình thì được, mình sẽ trực tiếp xin anh bạn hy sinh, chắc anh ta cũng thông cảm !”. Lúc ấy Phước đứng gần Hoài, cười cười: “Ừ. anh em mình thì thông cảm thôi, chắc anh bạn đó sẽ đồng ý!”. Vậy mà bây giờ Phước nằm đó, cứng đờ, lạnh ngắt.
Khoảng tám, chín giờ tối, mọi người bắt tay vào đào huyệt cho Phước. Trời mưa bụi lất phất. Ánh đèn dầu hắt lên một vùng sáng nhỏ vàng vàng giữa khoảng trời đất đen thẫm. Hoài cùng mọi người khiêng Phước tới. Hoài đi cuối đòn khiêng, sát với đầu Phước. Mùi máu người tanh vô cùng. Hình Phước cứ chập chờn trước mắt Hoài. Cánh tay trái Phước nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thế cầm súng. Cánh tay phải bị mảnh lựu đạn làm gẫy nát, lủng lẳng, lủng lẳng phía dưới, mỗi khi đi qua một bụi cây, vướng phải cây, cỏ, lại đung đưa, đung đưa. Mọi người lót bộ quần áo của Phước dưới huyệt. Xong, Hoài cùng một du kích giòng giây ở đòn khiêng, đưa Phước xuống huyệt. Xác anh đã cứng đờ, lạnh ngắt. Máu đẫm quần áo, đẫm cả tấm dù bọc xác anh. Ngọc cố ấn cánh tay trái của Phước xuống, song không được. Đành để Phước nằm dưới huyệt với cánh tay trái giơ lên trong tư thế cầm súng bắn. Rồi lấp đất, đắp mộ cho anh. Im lặng tiễn Phước đi. Mưa lâm thâm. Lạnh lẽo vô cùng!
Mọi người ra về trong mưa lạnh và trong nỗi buồn thương Phước. Đôi dép cao su của Phước giờ đây đang nâng bước chân Hoài. Một cô giao liên ở trạm hai ba có thân hình mập mạp nói: "Thật tội nghiệp anh Phước, trưa nay còn đi với bọn mình mà giờ đã nằm đó. Nhưng cũng còn may là chôn cất kịp”. Lan (nữ giao liên) bảo: “Anh Phước sống tội lắm, luôn thông cảm với mọi người, luôn tươi cười, vui vẻ." Hoài đi sau hai cô, nghe họ thì thầm trong hơi gió lạnh:
- Anh Phước vừa được công nhận đảng viên chính thức...
- Ừ, mới cánh đây ba, bốn bữa.
- Mới hai mươi tuổi chứ mấy.
- Công tác tiến bộ lắm.
- Anh ấy tội lắm, chỉ lo cho công tác thôi. Anh ấy bảo đi xa trạm có mấy ngày mà nhớ quá, chỉ muốn bay về trạm mà công tác. Mỗi khi nghe nói có địch, mọi người hỏi thì anh trả lời: “Cứ đi, gặp địch thì đánh, không thể để đứt liên lạc được” và đội mũ, xách súng đi liền.
Địch hoạt động mạnh quá, không thể chờ mua tiếp hàng nữa, vả lại, tiền cũng cạn rồi, Hoài và Giáo phải trở về căn cứ. Ở nhà, mọi người đang chờ, công việc đang chờ. Lại theo giao liên đi lên theo đường Danh Sơn. Lên đến đỉnh đèo, Hoài ngồi nhìn lại miền xuôi. Phía xa, ở ngọn đồi cao nhất, đồn Chóp Chài phơi mình dưới nắng. Một con đường ngoằn ngoèo theo triền dốc trườn lên khu đồi trọc lốc, đỏ lói và xen vào những khu nhà trắng.
*
Hoài và Giáo đã lên khỏi nước Y, cách vùng giáp ranh hai ngày đường. Hai anh em bàn nhau nghỉ một ngày, xả hơi. Hoài nhìn thấy một con suối tuyệt đẹp. Dòng suối có một đoạn trải rộng, bằng phẳng. Hai bên bờ là hai bãi cát mịn màng. Hết đoạn này, dòng suối đổ dốc, nước réo ào ào. Hoài rủ Giáo lấy đó làm bãi nghỉ. Giáo can: “Đừng. Nằm bên bờ suối, nhỡ nước lũ từ thượng nguồn đổ về bất chợt, bị cuốn trôi thì uổng mạng. Đã thế, nhỡ máy bay địch lên, dễ bị phát hiện!”. Tin vào kinh nghiệm của Giáo, Hoài cõng gùi hàng bước theo Giáo. Giáo chọn một đám đất khá phẳng nấp sau một tảng đá lớn, ở dưới tán cây rừng kín đáo để làm chỗ nghỉ. Hai người hạ gùi hàng xuống, đứng thẳng dậy, vặn người qua lại cho bớt mỏi, rồi mở gùi, lấy tăng, võng ra. Chỉ một loáng, hai cái tăng đã được mắc, bốn chiếc cọc phụ để buộc võng đã được làm xong. Mùa này vẫn còn mưa. Những chiếc cọc gỗ được đóng sâu xuống đất, cột vào thân cây để buộc võng, sẽ ngăn được nước mưa, không cho chảy vào võng, được lính Trường Sơn gọi là cọc phụ.
Cơm chiều xong, hai người lên võng đung đưa chuyện trò, rồi dần dần đi vào giấc ngủ.
Khi Hoài tỉnh giấc, đã gần trưa. Rừng im ắng lạ thường. Ánh nắng xuyên qua những kẽ lá, tạo thành những đốm vàng vàng trên mặt đất, trông thật vui mắt. Không thấy Giáo đâu, Hoài định gọi thì kia - Giáo đang nhoài người trên tảng đá, vẻ rất thận trọng, chăm chú. Không hiểu chuyện gì đang xảy ra, Hoài nhè nhẹ bước tới tảng đá, nhẹ nhàng leo lên, nghển cổ về phía Giáo đang nhìn.
Tự nhiên Hoài sững người, không thể thốt lên lời. Trước mắt anh, một cảnh tượng lạ lùng, anh chưa từng thấy bao giờ. Dòng suối tràn ngập ánh nắng vàng, nước chảy ào ào, trong leo lẻo. Có hai cô gái khỏa thân ở dưới suối. Có lẽ vừa đằm mình thỏa thích trong nước mát, hai cô bước thong dong trên bờ, phơi thân hình nõn nà giữa thanh thiên bạch nhật. Hoài vội vàng tụt xuống khỏi tảng đá, kéo Giáo tuột xuống theo. Hoài vừa nói: “Tại sao…” thì Giáo đã ngẩng mặt lên trời, bảo: “Im, hình như có tiếng trực thăng!”.
Bây giờ, Giáo không núp, nhìn trộm hai cô gái nữa. Anh đứng thẳng trên tảng đá, hươ hươ tay: “Máy bay! Trốn mau!”. Thấy người đàn ông đột ngột xuất hiện, hai cô gái vội vàng ngồi thụp xuống. Tiếng thét của Giáo bị tiếng suối chảy ào ào át hết. Giáo vươn người lên cao, vừa chỉ lên trời vừa ra hiệu cho các cô trốn mau.
Không kịp rồi! Một chiếc trực thăng HU1A từ hướng Đông bay tới, xả một tràng đại liên. Đạn xé không khí, lao vun vút vào dòng suối, bãi cát. Hai cô gái vùng chạy. Một cô lao về phía để quần áo, vừa quơ tay lên định lấy chiếc quần, thì trúng đạn, ngã gục. Cô gái còn lại cứ mình trần như nhộng chạy thẳng vào rừng. Chiếc trực thăng đảo một vòng, xả thêm một tràng đại liên. Nó bay thấp tới mức Hoài nhìn rõ bọn lính Mỹ ngồi trong máy bay. Đảo một vòng nữa, chiếc HU1A ngóc đầu lên cao, cùng chiếc trực thăng đang bay cảnh giới phía trên lùi lũi tiến về phía Đông, xa dần, xa dần.
Sự việc diễn ra quá nhanh, khiến Hoài và Giáo không kịp phản ứng. Lấy vội tấm vải mưa, Hoài đi về phía cô gái, phủ lên thân thể lõa lồ của cô. Chẳng còn hi vọng gì, bởi đạn đã bắn xuyên qua đầu và làm nát ngực của cô. Giáo vơ đống quần áo của hai cô gái, bỏ vào túi ni lông, túm lại, bảo Hoài: “Phải tìm cô gái kia!”. Hai người chạy theo hướng cô gái chạy lúc nãy. Rừng loòng boong khá thoáng, có nhiều lối đi lại, không hiểu cô gái chạy lối nào. Hoài bụm tay làm loa, gọi: “Cô gì ơi! Cô ơi!”. Giáo cũng hú từng tiếng dài, vang động núi rừng. Nhưng, cô gái đã mất tăm trong khoảng rừng mịt mùng.
Quay lại bãi cát bên suối, Hoài thấy một nhóm người đang túm tụm quanh nơi cô gái nằm. Hỏi ra mới biết, đó là đoàn gùi cõng của Ban Binh vận, đi từ vùng ranh lên. Hai cô gái là thành viên của đoàn. Họ cũng dừng lại nghỉ tại cánh rừng này để xả hơi. Hai cô gái đều quê Thái Bình, rủ nhau ra suối tắm, thì gặp nạn. Trao túi quần áo của hai cô gái cho anh trưởng đoàn, Giáo dặn: “Cô kia có thể chạy theo hướng ngược dốc, lên núi Voi. Các anh cố gắng tìm nhé!”. Quay lại, Giáo nói với Hoài: “Thôi, mình phải rời nơi đây ngay. Nhỡ bọn địch đổ quân!”. Hai người chào anh em trong đoàn Binh vận, không quên nhắc nhở: “Các anh cũng cần rời khỏi đây ngay!”.
Hôm Hoài và Giáo về qua nóc Ông Chanh, các cháu nhỏ chạy ùa ra, ôm lấy hai anh, khóc òa. Chúng bảo rằng tưởng hai anh không còn quay về được nữa! Chị H’Ly gọi Hoài, Giáo vào nhà, đưa chuối bảo ăn và đưa nước đoác bảo uống. Hoài ngỡ ngàng với thứ nước uống lạ lùng này – nó ngòn ngọt, có hơi men nồng nồng giống như bia. Khi ở Ban, Hoài đã từng đi chặt hũ đoác và ăn sống, nhưng chưa được uống thứ nước lên men này bao giờ. Cây đoác giống như cây dừa, mọc hoang dại trong rừng. Ở ngọn cây, trong lõi là một cái hũ to như củ chuối, trắng phau, có vị ngọt mát như củ đậu. Hũ đoác có thể dùng ăn sống hoặc xào, nấu, khá ngon và bổ dưỡng. Hoài đã từng mất cả buổi mới chặt được vài cái hũ đoác, đem về cho nhà bếp làm thức ăn. Giáo giảng giải: “Khi cây đoác ra buồng, người ta chặt buồng gần sát cuống, xẻ rãnh rồi hứng ống lồ ô ở dưới. Nước trong cây chảy ra nhỏ giọt, mỗi ngày được khoảng vài ống lồ ô. Đem về nhà, ngâm rễ cây chuồn vào, chỉ cần qua đêm đã thành thứ rượu nồng”. Chị Chanh vội đi nấu cơm. Đồng bào đã thu hoạch lúa, nhà nhà tạm thời no đủ.
Lúc về đến Đội sản xuất Làng Tuyên, Hoài không thấy Hải đâu. Mãi sau, vào bếp để lấy nước, Hoài mới thấy Hải đứng khóc lặng lẽ ở góc nhà. Gặng hỏi mãi, Hải mới trả lời: “Em tưởng hai anh hi sinh rồi! Sao mà đi lâu thế?”. Hoài nói vui: “Hi sinh thế nào được. Bom đạn Mĩ chê bọn anh, em ạ!”. Nói xong, Hoài cười, nhưng bỗng thấy toàn thân mình ớn lạnh.
Thấy Hoài rùng mình, run run, giọng lạc đi, Hải hoảng hốt: “Anh đau rồi!”. Chuyến đi đồng bằng dài hai mươi mốt ngày đã hút cạn sức lực của Hoài. Bây giờ, Hoài bị một trận sốt rét quật ngã. Vốn ưa hoạt động, mà bây giờ Hoài phải mắc võng nằm co ro. Đầu đau như búa bổ. Các khớp xương nhức nhối. Bụng tức anh ách, lúc nào cũng thấy no một cách giả tạo. Hải nấu cháo, đem tới: “Anh ơi, anh ráng ăn chút cháo cho có sức!”. Hoài húp một thìa cháo loãng, kêu: “Mặn quá em ơi!”. Hải ân cần: “Miệng anh đắng đấy. Cháo em không nêm gì anh à! Vậy, em hòa sữa vào nhen!”. Hải chạy về nhà mình, lấy hộp sữa Ông Thọ đem sang. Hộp sữa này, Hải nhờ mua ở đồng bằng từ mấy tháng trước, cứ để dành mãi. Hải mở lon sữa, múc hai thìa vào bát cháo, khuấy đều. Cô động viên: “Ráng ăn đi rồi uống thuốc, sẽ lành bệnh ngay thôi!”. Hoài cố gắng ngồi trên võng, húp từng thìa cháo. Anh thấy miệng đắng ngắt, cổ họng ghê lợm cứ muốn nôn mửa, nhưng anh kìm lại được. Nhìn nét mặt lo lắng của Hải, Hoài lại kiên trì múc cháo, run rẩy ăn.
Sau khi ăn chút cháo, Hoài nằm xuống, mơ mơ tỉnh tỉnh. Hải lục ba lô, lấy liều thuốc ký ninh mà cô cất kỹ, đem ra cho Hoài uống. Chiến khu gian khổ, thiếu thốn, viên thuốc ký ninh cũng trở thành báu vật. Trong cơn sốt li bì, Hoài không còn suy tính gì được, nhất nhất làm theo lời Hải. Anh uống những viên thuốc đắng ngắt, rồi phủ bọc võng, nằm run. Chỉ một hồi sau, Hoài thấy tai bùng lên, bùng lên bùng bục như có sấm rền trong đầu. Mắt cảm thấy bị chói nắng, không nhìn rõ gì cả. Đêm, mắt chong đèn không sao ngủ được. Đầu cứ buốt thon thót. Hai hôm sau, Hải bảo: “Anh Hoài, em lấy thuốc tiêm cho anh, mau lành, nhen!”. Hoài lắc đầu: “Anh đỡ rồi, không cần đâu em. Để dành thuốc tiêm, khi bị ác tính hãy dùng!”.
Sức trẻ đã vực Hoài dậy rất nhanh. Chỉ ba ngày sau, Hoài đã hết sốt, ngồi dậy được. Nhìn sang bên cạnh, thấy một người nằm rên trên chiếc võng vải ka ki, Hoài ngạc nhiên: “Ơ, Vò đấy à?”. Vò mở mắt, không nói gì và lại tiếp tục rên hừ hừ. Thì ra, Vò đã bị sốt cách đây chục ngày rồi, mắc võng nằm ở ngôi nhà lớn. Bây giờ, mọi người chuyển Vò sang mắc võng cùng nhà với Hoài, để dễ chăm sóc. Hải đảm nhận luôn công việc của y tá, hộ lý.
Nằm trong võng, Vò cựa quậy, kêu khó thở. Hải vực Vò dậy, chuyển ra chiếc sạp làm bằng nan lồ ô ở phía dưới võng. Nằm bẹp trên sạp, Vò thở khò khà khò khè. Hoài lần khỏi võng, xuống sạp, ngồi bên Vò, cầm tay và gọi: “Vò ơi, Vò ơi!”, song Vò chẳng biết gì cả. Người Vò lạnh ngắt, chân tay co lại, chẳng cử động gì. Đôi mắt Vò mở, song không nhìn vào đâu cả. Hoài nắm tay Vò giật giật và gọi: “Vò ơi, có lạnh không?”. Vò hơi cựa quậy một chút, nhưng không nói được mà chỉ: “Ự, ự” trong họng. Hoài bảo Hải lấy tấm mền dù hoa của mình, gập làm đôi, đắp cho Vò.
Hải tới ngồi bên, nắn bóp hai tay Vò. Đôi tay Vò gầy nhẳng, cứng đơ đơ. Hải bảo: “Em định tiêm thuốc cho anh Vò, nhưng anh ấy cũng nói như anh, rằng cất đi, khi nào cần lắm hãy dùng. Bây giờ, em tiêm thuốc cho anh Vò nhé!”.
Vò cũng bị sốt rét, nhưng lại kèm thêm đi lỏng, nên Hải không biết điều trị thế nào cho hợp. Tiêm thuốc kí ninh rồi, vẫn chẳng bớt! Cũng không có đủ người để chuyển Vò vào viện, vì phải khiêng võng đi hai ngày đường, mà nhân lực lúc này đang thiếu – những anh em khỏe mạnh đang trên đường cõng lương thực ra tiếp tế cho Ban, phải ba ngày nữa mới về.
Tối, Vò kêu đau bụng, muốn đi ngoài. Đành phải đỡ Vò xuống khỏi sạp, lấy lá lót để Vò đại tiện. Nhưng, ngồi mãi, Vò cũng chỉ thải ra chút phân mầu trắng, mà ở hậu môn, lại lòi ra một khúc ruột dài tới cả gang tay! Da Vò từ xanh xao chuyển sang mầu xám nhạt. Đỡ Vò lên, thấy Vò thở khò khè, hơi thở hắt ra toàn khí lạnh. Mắt vò lõm xuống, đờ dại; Hoài đưa tay ngang qua mắt Vò nhưng không thấy mắt cử động. Toàn thân Vò vã mồ hôi làm ướt tóc, ướt cả áo quần. Gay rồi – Hoài nghĩ – Vò bị thoát tâm dương rồi, vô phương cứu chữa!
Khoảng chín giờ tối hôm đó, Vò tắt thở. Thấy toàn thân Vò lạnh ngắt, nhưng trên đỉnh đỉnh đầu còn âm ấm, Hoài liên tưởng đến cuốn sách nhà Phật mà anh đọc được khi còn ở miền Bắc, có viết: “Nếu người chết mà toàn thân lạnh ngắt chỉ có đỉnh đầu còn nóng thì thần thức sẽ thoát ra ở đỉnh đầu và người này chắc chắn sẽ sinh về một trong những cõi Trời để hưởng phúc lạc”. Không biết thực hư thế nào, nhưng Hoài cứ tin rằng, những người như Vò, sống một cuộc sống lương thiện, xả thân vì nước, thì khi qua đời, sẽ được về miền cực lạc.
Hoài bảo với anh Bá cứ để Vò nằm cạnh mình, tới sáng hãy đem đi mai táng.
Nằm bên xác người đồng đội thân yêu, Hoài cảm thấy như Vò đang chuyện trò cùng mình. Bao nhiêu kỷ niệm, tưởng như đơn giản, mà lại thắm đẫm tình người, cứ hiện lên trong tâm trí Hoài. Vò quê ở Ninh Giang Hải Dương. Mới mười chín tuổi, Vò đã được kết nạp vào Đảng - kết nạp ngay trên đường vào Nam. Do có khả năng viết lách, Vò được chuyển từ đơn vị bộ binh sang ban Tuyên huấn Khu. Sang Ban, cũng giống như Hoài, nhiệm vụ đầu tiên Vò được phân công, không phải là viết tài liệu, mà là vào đội sản xuất tham gia làm nông. Vóc người mảnh khảnh, da dẻ xanh xao, chẳng bao lâu, Vò bị những trận ốm đau hành hạ. Song cậu ta rất cố gắng. Nhiều buổi trời mưa lạnh, Vò vẫn đi chăn trâu, về còn hái rau cho nhà bếp. Có hôm, Vò cùng Hoài ra suối bắt cá. Không lưới, không cần câu, Vò có kiểu bắt cá rất lạ. Đó là ném đá ùm ùm xuống suối cho cá sợ, chui hết vào các hốc đá. Rồi Vò lội xuống suối, lùa tay vào những nơi đó, tóm ra những chú cá tươi rói. Hoài làm theo Vò, nhưng luồn tay vào hốc đá nào cũng trống không, tới khi gặp một hốc có chú cá khá to, thì nó đã nhanh như chớp, lách khỏi bàn tay Hoài, thoát ra. Nhìn con cá trầu bơi vụt đi trong làn nước trong veo, Hoài tiếc rẻ quá. Hoài đành đi dọc suối, nhặt những con ốc đá, loại ốc to bẳng đốt ngón tay cái, chuyên bám vào các tảng đá, thịt khá ngon ngọt. Hôm ấy, hai anh em đem về hai chục con cá nhỏ cùng với một bọc ốc suối; cả đội được bữa ăn tươi! Vò rất chịu khó khâu vá, tuy đường kim mũi chỉ của cậu ta rất vụng về, chỉ như đường may lược của các cô gái. Chiếc mũ Vò may còn đó, chiếc quần cậu ta may bằng vải xé từ ruột nghé đựng gạo đang còn dở dang... Hoài quặn thắt lòng khi nghĩ rằng, trước đó ít ngày mà có nhân lực để đưa Vò đi bệnh viện hoặc chỉ cần có thêm ít ống thuốc kí ninh, ít Cacofe, B12, cùng với thuốc chống đi lỏng, điều trị cho Vò là có thể giữ cậu ta lại được. Đơn giản như vậy đó, song thật đau xót, không thể làm như vậy được. Thuốc quá thiếu thốn, không còn một ống kí ninh, mà thuốc viên cũng hết nhẵn. Cách đây ít lâu, nhìn da Vò xanh dợt, bủng beo, thân hình gầy nhom, khật khưỡng, Hoài nghĩ rằng cậu ta khó mà trụ được với cuộc sống khắc nghiệt này. Có ít viên sâm Triều Tiên, Hoài đã đưa cho cậu ta dùng. Song ăn thua gì kia chứ? Còn đau xót nào hơn nỗi đau xót khi biết trước rằng đồng chí mình có thể chết, lại biết cách để cứu đồng chí mình, nhưng không có điều kiện để cứu, đành chịu thua thần chết?
Sáng, Hoài thức dậy sớm để chuẩn bị đưa Vò đi mai táng. Vừa bước xuống võng, Hoài thấy chân nặng trịch, người lảo đảo muốn ngã. Giáo đỡ hoài, động viên: “Ai ở Trường Sơn mà chẳng bị sốt rét nghĩa vụ, rồi sẽ quen đi và sẽ thấy bình thường!”. Anh Bá khuyên Hoài: “Cậu còn yếu, chưa đi tiễn Vò được đâu. Cứ nằm nghỉ, bọn mình sẽ lo chu đáo cho Vò!”. Ngồi xuống sạp, Hoài đặt tay lên vai Vò, giọng rầu rầu: “Vâng, tôi đành ở lại. Anh đem theo tấm dù hoa này của tôi bọc xác Vò nhé!”.
*
Trong buổi họp Đội, anh Bá nêu yêu cầu của Ban là phải phấn đấu trồng được tám chục nghìn gốc sắn! Anh nói: “Tình hình còn khó khăn, chúng ta phải tính chuyện lo lương thực dự trữ. Sắn trồng một năm là cho củ, nhưng nếu để dự trữ, thì hai, ba năm sau khai thác vẫn được. Do vậy, bên cạnh việc trồng lúa, ngô để khai thác theo mùa, ta cần trồng sắn để khai thác lâu dài!”. Ai cũng thấy anh Bá nói có lý.
Muốn trồng sắn, phải có hom sắn, tức là thân cây sắn. Hom tại chỗ không đủ, Đội phải đi xa, mất một ngày đường mới có thể tới nơi khai thác. Đó là những rẫy sắn của các đơn vị bạn, đã được đào hết củ từ vài ba năm, chỉ để lại thân cây. Với lượng hom sắn cần nhiều như vậy, anh Bá huy động gần hết Đội đi lấy hom, chia thành ba nhóm. Nhóm thứ ba gồm Giáo, Hoài, Hải, Nhơn, do Giáo phụ trách, được phân công lấy hom sắn ở vùng Nước Lon. Sáng dậy, ăn cơm xong, mỗi người mang một nắm cơm, một con rựa lên đường. Rẫy bỏ hoang đã lâu, mọc chi chít những cây, cỏ, dây leo. Hoài lầm lũi phát dây dợ, mở đường vào bên trong rẫy. Phát hiện một đám đất quang quẻ, có nhiều cây sắn nằm rải rác hoặc chất đống, Hoài vội gọi Hải, Giáo, Nhơn tới. Bốn người cặm cụi chặt, dỡ, gom những cây sắn lại. Họ chọn những cây sắn thẳng, khỏe mạnh bó thành từng bó, mỗi bó một trăm cây. Bó xong, đã quá trưa, bốn người dở cơm nắm ra ăn.
Nhìn rẫy sắn bị bỏ hoang, Hoài nhớ lại những ngày hành quân trên đường Trường Sơn vào Nam. Khi gần đến Khu, bị kẹt đường do địch càn, lương thực cạn kiệt, Hoài đã đến những rẫy sắn như thế này để mót sắn. Ở đó sắn nhiều, nhưng bỏ lâu rồi nên hoang vu, sắn mọc lẫn những bụi gai góc, lau sậy, cây cối. Phải chui rúc mà mót, may thì gặp nơi nhiều, không may thì gặp nơi ít hoặc không được củ sắn nào. Cứ theo triền dốc đi xuống, Hoài gặp một bãi sắn đã bị khai thác. Những cây sắn to đổ ngổn ngang, để lại những cái hốc đỏ lòm mầu đất. Hoài ngơ ngác tìm các bờ bụi, chẳng thấy cây sắn nào sất! Mà sao lắm cây mâm xôi thế. Loại cây này thân đầy gai, bò ngùng ngoằng, quấn vào nhau dầy đặc. Gai nó cào toạc cả da thịt. Nắng chói chang. Nắng toé lửa. Hoài bươn lên sườn núi lùng nhùng những bụi mâm xôi rồi rúc ngang, kiếm mãi vẫn chẳng có gì. San và Vượng cũng vậy. Nhưng sau đó, ba người cũng tìm ra vài ba gốc sắn mọc lẫn trong lau lách. Thế là xúm nhau vào phát, đào. Cái thứ sậy chết tiệt này, rễ, gốc ăn tràn mặt đất, cắm sâu xuống đất và cứng tổ cha. Hoài, San, Vượng phải thay nhau dùng dao găm bạt dần từng mảng rễ, gốc đó ra mới đào được. Khát khô cả cổ. Bi đông cạn sạch nước rồi. Trời lại rắc cho một ít hột mưa rào. Hơi đất được dịp bốc lên, thốc vào mặt ba người - những khuôn mặt có những cái miệng và cái mũi đang há hốc ra thở dốc. Ậm ạch, hì hục mãi rồi cũng moi được sắn từ lòng đất lên. Khoảng một nửa gùi tất cả. Quá trưa, ba người ra về. Hôm sau, lại đi đào sắn, song ba người đi chếch ra ngoài một chút. Hoài và San mượn được hai cái xẻng nhỏ, chắc sẽ đỡ vất hơn. Nơi này khá rậm. Rúc một lúc là mất hút Vượng rồi. Mọi người í ới gọi nhau, nhưng không được, đành chia hai cánh, đào hai ngả vậy. Nơi này khá nhiều sắn. Hoài và San cắm cúi đào. Đất cũng khá mềm. Cứ đào được một bụi, lại rúc rúc, luồn luồn trong bụi rậm, lần ra từng hốc sắn mà đào. Khoảng nửa buổi, Hoài rúc ngược lên và gặp Vượng, Anh đào được khá nhiều sắn. Sắn to thật, nhiều củ bằng bắp đùi. Hoài cũng ra sức đào, moi lên những củ sắn đầu phình to, đuôi múp lại, trông thật ngộ ngĩnh. Xế trưa, ba người ra về, mỗi người lặc lè một gùi sắn. San không gùi, anh buộc lại mà gánh. Thế là tai vạ đến với anh: rúc một chặp, sắn bị dây dợ, gai góc lôi kéo thi nhau rơi. Mỗi lần như vậy, San lại phải đặt gánh xuống, lượm từng củ, buộc lại. Có lẽ quá mệt, anh đâm bẳn tính, cáu gắt nhặng xị. Hoài cứ bụm miệng cười. Ai bảo dại! Khát khô cả cổ. Mệt mỏi rã rời. Gùi sắn trĩu nặng trên lưng...
Hoài nói với Giáo: “Những rẫy sắn như thế này, chắc chắn là còn nhiều củ. Khi nào, ta tới mót nhé!”. Giáo gật gù tán thành ý kiến của Hoài.
Chuẩn bị ăn cơm, Hoài nghe có tiếng nói lao xao phía đầu rẫy. Hóa ra có nhóm ba người dân đi ngang, mỗi người gùi một gùi nặng sau lưng. Nhơn chạy ra, vẫy vẫy: “Đồng bào ơi, vô đây nghỉ đã!”. Nhóm người dừng chân, vui vẻ bước theo Nhơn tới bên gốc cây, hạ gùi xuống. Hoài chỉ ba nắm cơm đang được bày trên tàu lá chuối, mời: “Đồng bào cùng mình ăn trưa nào!”. Một người trong nhóm, có mái tóc dày, quăn, chỉ vào chiếc gùi đặt bên cạnh mình: “Mình mời cán bộ ăn thịt voi!”. Ui cha, chưa bao giờ Hoài được ăn thịt voi. Chỉ được nghe anh em kháo nhau là thịt voi rất lành, ăn như cơm, không sợ đau bụng. Thấy mọi người tỏ vẻ ngạc nhiên, người tóc quăn nói: “Bọn mình đi rừng, tìm săn con nai, con heo, thì gặp con voi này. Nó bị trúng đạn máy bay Mỹ, mới chết. Bọn mình không đi săn nữa, xẻ thịt voi, đem về đây. Cán bộ cùng ăn nghe!”. Nói rồi, anh mở gùi, cầm ra một tảng thịt, đưa Nhơn: “Cán bộ làm chín đi. Mình cùng ăn trưa!”.
Chỉ một lúc, thịt voi đã được chị Nhơn khéo léo làm thành hai món: nướng và nấu. Chỉ tiếc là không đem theo gia vị, chị Nhơn phải đốt cỏ tranh lấy tro thay muối, cho nên thức ăn hơi bị nhạt.
Bảy người ngồi quanh “mâm” cơm, thực ra là một tàu lá chuối rộng bản, trên có bày ba nắm cơm và thịt voi, vui vẻ ăn với nhau, thân thiết như người trong một nhà.
Ăn xong, cậu bé trong đoàn rút một ống nứa từ gùi ra, đưa cho Giáo: "Nước đoác, cán bộ uống đi!". Giáo đỡ ống nứa, cười hề hề:"Nước đoác mà có thịt voi/Ăn rồi lại uống, cuộc đời lên tiên!". Giáo đưa lại ống nước cho Nhơn: "Ưu tiên phụ nữ, chị uống trước!". Không khách sáo, Nhơn đón lấy ống nước, mở nút lá chuối, nói: "Uống vòng tròn nghe!". Ực một hơi, Nhơn chuyển qua cho Hải: "Tới em!”. Hải cũng làm một hớp rồi chuyển cho Hoài: "Tới anh!". Hoài đỡ lấy ống, nhưng chuyển luôn cho anh tóc quăn: "Mình không uống được bia, rượu. Hôm uống ở nóc ông Chanh, mình bị say, suýt nữa thì không về nhà được!". Hải nhìn Hoài ngạc nhiên, nhưng chỉ cười.
Bữa trưa vui vẻ quá. Anh tóc quăn mở gùi, lấy ra bốn tảng thịt voi, đưa cho Giáo: "Cán bộ đem về ăn chung!". Hoài lục túi, lấy ra chiếc máy lửa Zippo mà anh mua được trong chuyến đi đồng bằng vừa qua, đưa cho anh: "Mình kỉ niệm cho các anh!".
Hai nhóm người chia tay nhau. Nhóm “đồng bào” tiếp tục leo dốc, đi về phía Nước Là. Nhóm “cán bộ” xuôi xuống, hướng về Đội sản xuất. Bốn anh em, mỗi người một gùi cây sắn nặng trịch sau lưng, cắm cúi bước. Giáo nhẩm tính: Mỗi gùi được khoảng năm, sáu trăm hom sắn. Cả đội được chừng vài chục ngàn hom mỗi chuyến. Còn là mệt mới đủ hom để trồng tám mươi nghìn gốc sắn!
Ra khỏi một cánh rừng, bốn người đi qua một đồng cỏ. Bầu trời thoáng đãng, gió lồng lộng khiến cho ai nấy thấy người nhẹ bỗng. Mặc dù gùi hom sắn đè nặng sau lưng, xiết lấy lồng ngực, Hoài vẫn cố vươn mình, hít một hơi thật sâu. Làn gió phóng khoáng vờn trên đồng cỏ, tạo nên những gợn sóng dập dờn, đẹp, thanh bình, đáng yêu làm sao!
Bỏ qua đồng cỏ bằng phẳng, bốn người đi ngược lên một con dốc, bước vào một rẫy lúa. Lúc này, lúa đã vào hạt, toả ra hương thơm dịu ngọt, báo hiệu một mùa ẩm no. Mọi người men theo rẫy lúa, cắm cúi bước. Hoài hít hà hương lúa, nhớ tới những ngày lao động ở Kim Lan, được gặt lúa cùng bà con nông dân, cũng được hít thở bầu không khí ngọt ngào hương quê như lúc này đây. Hoài thấy lâng lâng, chìm trong giấc mơ thanh bình. Giấc mơ đưa Hoài về với Hà Nội, với dòng sông Hồng mênh mông, sóng vỗ dập dờn, với bọn bạn học hồn nhiên…
Bỗng, Hoài giật nảy mình, choàng khỏi cơn mơ, bởi tiếng Giáo quát: "Trực thăng. Đứng im!".
Tất cả dừng lại, khom người, gùi hom sắn đè nặng trên lưng.
Có tiếng động cơ máy bay phành phạch ngay phía đồng cỏ, mỗi lúc một to. Đã có kinh nghiệm trong chuyến đi đồng bằng, Hoài biết có hai chiếc máy bay trực thăng đang tiến về phía mình. Hoài cũng đoán rằng chúng sẽ rải chất độc, mà bọn giặc Mỹ gọi là chất khai quang. Sau bao thất bại ê chề, sau bao trận trải thảm bom, thảm chất độc mà không đạt được mục tiêu, chúng rút kinh nghiệm, đánh tập trung hơn, chọn điểm để đánh. Bây giờ, chúng không dùng máy bay vận tải cỡ lớn C123 hoặc H -34 rải chất độc hóa học xuống cả cánh rừng bao la, mà dùng máy bay trực thăng rải xuống từng thửa ruộng, đám rẫy.
Bó hom sắn trên lưng trở thành vật ngụy trang, che chở cho bốn người nên họ cứ kiên nhẫn khom người chờ máy bay bay qua. Thế rồi, tiếng máy bay gầm rít ngay trên đầu, một màn sương đùng đục, nâu đỏ bao phủ rẫy lúa. Một mùi hăng, nồng pha lẫn mùi dầu diezen lan tỏa, khiến ai nấy tức thở. Hai chiếc máy bay bay song song dọc theo rẫy lúa, phun thuốc “khai quang” xuống mù mịt. Tới cuối rẫy, chúng quay lại, hạ thấp hơn, phun nốt số thuốc còn lại, rồi mới cút. Giáo dùng khăn che miệng, cố nói to: "Chạy nhanh xuống suối!". Lăn lộn ở chiến trường nhiều năm, Giáo dày dạn kinh nghiệm, biết xử lý các tình huống để thoát hiểm. Mọi người nhanh chóng tách khỏi rẫy lúa, men theo con dốc nhỏ, cứ theo tiếng nước chảy róc rách mà lần xuống.
Hạ gùi hom sắn xuống bờ suối, mọi người nhìn nhau, giật mình vì thấy trên tóc ai cũng lấm tấm những giọt nước nâu đỏ, nhờn nhờn. May mà nhờ gùi hom sắn che chở, chất độc chỉ lọt vào người một ít. Giáo bảo mọi người dìm ngay hom sắn xuống nước và gội đầu, rửa mặt cho kỹ. Loại chất độc hóa học này không tan trong nước, phải loại chúng ra ngay khỏi cơ thể. Hoài phục Giáo, xử lý nhanh và chính xác các sự cố. Không có thuốc giải độc, đành phải lấy nước tẩy độc thôi. Mỗi người đều gội đầu, rửa mặt mũi, tay chân kỹ càng. Hoài bảo Hải và Nhơn lên đoạn suối phía trên tắm, giặt, bởi anh thấy vai áo của hai người bị ươn ướt thứ nước nhầy nhầy độc hại đó. Bốn gùi hom sắn được ngâm trong dòng suối trong lành. Hoài hi vọng, nước suối sẽ làm trôi đi hết chất độc, chứ không, cây sắn chứa độc, nảy mầm, sinh củ trong độc tố, nguy hại khôn lường!
Khi bốn người về đến nhà, anh em đang lo lắng, trông đợi. Hai nhóm kia đã về từ năm giờ chiều. Mọi người lo nhóm của Giáo gặp máy bay trực thăng, bị chúng “kít” xuống bắt! Anh Bá đến đỡ gùi hom sắn xuống giúp Hoài - anh vẫn bảo rằng Hoài còn thư sinh, yếu hơn mọi người, cần được đặc biệt quan tâm. Nghe Hoài nói lí do về chậm, anh cứ suýt xoa: "May quá, may quá!".
Bữa chiều, cả đội được liên hoan thịt voi "thí xác" (có nghĩa là vô cùng thoải mái, tha hồ). Tối, cả Đội họp, nghe anh Bá đọc thư của Trưởng ban Tuyên huấn Khu phổ biến tình hình, xác định nhiệm vụ của đơn vị. Theo nhận định của Khu ủy, lương thực vẫn luôn là vấn đề trọng yếu. Phải tích cực sản xuất, tự túc lương thực, nếu không sẽ đói, mất sức chiến đấu. Như vậy, đội sản xuất Làng Tuyên phải có kế hoạch sản xuất lâu dài, cơ bản hơn. Hoài nhói lòng khi biết rằng rẫy sắn của Đội phía Nước Ngheo vừa bị máy bay Mỹ rải chất độc hóa học tàn phá. Bởi vậy, ngay sáng mai, toàn đội phải tới nước Ngheo chặt cây sắn, không để chất độc theo thân xuống củ. Riêng nhóm của Giáo, chỉ tham gia trong buổi sáng, sau khi ăn trưa, sẽ đi lấy thịt voi.
Nhìn rẫy sắn mênh mông, chứa đựng biết bao mồ hôi, nước mắt của mỗi người trong đội Làng Tuyên, sắp đến ngày được thu hoạch, vì bọn giặc man rợ, mà bây giờ rũ lá, phủ một màu vàng thê thảm cả một ngọn đồi, lòng ai cũng tái tê. Bọn xâm lược này không từ một thủ đoạn nào để triệt đường sống của người Việt Nam, cố thực hiện bằng được dã tâm cướp nước!
Mọi người dàn hàng, khom mình, dùng rựa phạt cây sắn tới sát gốc. Những dòng nhựa ứa ra, như cây rỉ máu đớn đau. Mùi hoá chất độc nồng nặc như bàn tay ma quái bịt miệng, bịt mũi, làm cho mọi người nghẹt thở. Dù ai nấy dùng khăn che kín mũi, miệng, nhưng làm sao cản nổi sự thâm nhập của loại chất độc này vào lục phủ ngũ tạng?
Chả mấy chốc, một vạt rẫy đã trơ ra những gốc sắn, ngổn ngang những thân cây khẳng khiu. Hi vọng là, chất độc mới thấm vào lá sắn, chưa kịp theo dòng nhựa thấm vào củ sắn. Thế nhưng, còn chất độc thấm trong đất, làm sao mà tẩy rửa được, rồi nó vẫn ngấm vào củ, gây hại lâu dài, làm sao mà lường cho thấu? Nhưng thôi, cứ phải thực hiện biện pháp ngăn chặn duy nhất đúng lúc này là chặt cây, không để chất độc lan xuống củ.
Nhóm bốn người: Giáo, Hoài, Hải, Nhơn, do Giáo phụ trách, lên đường tới rừng Ông Xây lấy thịt voi.
Giáo có kỹ năng đặc biệt về đi rừng. Chỉ nghe anh tóc quăn bảo qua, Giáo đã hình dung ra đường ngắn nhất tới rừng Ông Xây. Giáo phổ biến: tối nay sẽ ngủ ở rừng Chò, sớm mai đi tiếp, tới nơi, xẻ thịt voi rồi quay về. Trong gùi của mỗi người đều có tăng, võng, dao, rựa. Riêng Giáo còn đem theo rìu, anh bảo là da voi dầy, chân voi rắn, phải có rìu mới trị được.
Khu rừng mà Giáo chọn để nghỉ qua đêm, có tên là rừng Chò, bởi nó có nhiều cây chò, nằm trên một dải đất bằng phẳng. Hoài sững sờ trước vẻ đẹp của rừng, đặc biệt là những cây chò. Cây vươn cao tới gần bốn chục mét, thân to một người ôm không xuể. Trông chò ra dáng một lực sĩ, vươn thẳng, chắc nịch, tràn đầy sức sống. Những “chàng lực sĩ” ấy đứng rải rác, xen với những cây sấu, re xanh, trám, sâng... tạo thành một khu rừng nguyên sinh, với bầu không khí dìu dịu, trong lành.
Không biết ai đã dựng sẵn một dàn tăng võng, có thể chứa năm, sáu người. Bốn người chỉ cần phủ các tấm tăng lên nóc, mắc bốn chiếc võng vào hai thanh ngang, là đã có một chiếc lều đàng hoàng. Theo sự phân công của Giáo, hai cô gái mắc võng ở giữa, Hoài, Giáo ở hai bên. Hoài thầm nghĩ: “Giáo chu đáo thật. Hai người nằm ngoài bảo vệ hai cô đây!”. Nghĩ tới việc có thể làm “lá chắn” bảo vệ những đồng đội nữ, Hoài thấy vui vui, mà lại bùi ngùi chua xót. Sống trong rừng thời chiến, thiếu thốn, gian khổ, cái chết luôn luôn rình rập, nam giới phải chịu đựng một, thì chị em phải chịu đựng gấp cả chục lần. Hoài cảm phục hai người phụ nữ đang cùng anh đi kiếm thực phẩm cho đồng đội này, cả hai không hề tỏ ra phải lên gân để vượt qua mọi thử thách, mà cứ lặng thầm, bình dị, hồn nhiên cống hiến.
Giáo nói: "Hôm nay, ta tự chiêu đãi những món ăn ngon của rừng nhé!". Cả nhóm “Nhất trí!” và bắt tay vào việc. Giáo và Nhơn đi bắt cá, ốc. Hoài và Hải đi hái rau, lượm củi.
Rừng Trường Sơn không những “che” mà còn “nuôi” bộ đội, “vây” và “diệt” quân thù. Trong rừng, trời đã ban xuống cho con người không biết bao nhiêu là lương thực, thực phẩm. Riêng các loại rau, lá rừng có thể ăn được, đã có cả trăm loại. Nhưng cũng phải thận trọng, trong rừng còn có bao nhiêu loài lá độc, bao cạm bẫy nguy hiểm. Hoài đã học được rằng, phàm những lá, quả có vị chua, đều không độc. Hoài biết tới trên bốn chục loại lá, quả chua, như sấu, bứa, tai chua, sống đời, bụp giấm, rau chua, lá giang... Lá, quả chua trở thành món ăn thân thiết đối với người lính Trường Sơn. Chỉ cần chút muối, chút bột ngọt và vài nắm lá chua là đã có nồi canh chua hấp dẫn. Lính Trường Sơn ai mà chẳng bị sốt rét “nghĩa vụ”, khi lên cơn sốt rét, sao lại thèm của chua đến thế. Trời đã chiều lòng người Trường Sơn, ban cho món chua ấy giúp những người bị sốt rét đỡ đắng miệng, thêm sức chống đỡ với lưỡi hái của thần chết.
Tuy vậy, Hoài tự thấy mình còn ngù ngờ lắm, chưa nhận dạng được nhiều loài cây, cỏ, củ sẵn có trong rừng để khai thác. Anh chỉ biết mấy thứ thông thường có thể ăn được như nấm mối, nấm mèo, môn dóc, môn thục, rau dớn, củ nưa… còn lại bao sản vật khác, đối với Hoài vẫn là điều bí ẩn. Hoài cùng Hải bắt đầu đi kiếm rau. Thấy đám môn dóc, Hoài bảo: "Rau đây rồi!" và định xà xuống hái. Hải ngăn lại: "Có rau khác ngon hơn, anh ơi!". Hải tiến tới một bụi cây, chỉ vào một cây thân gỗ, chỉ to bằng cổ tay trẻ con, cao quá đầu người. bảo: "Đây là cây rau ranh, lá ngon lắm! Quê em có câu: Rau ranh ốc đá là cá nậu nguồn". Hai anh em vít cành, hái lá - mùa này, rau ranh đang ra lá non. Hoài bứt một nắm thứ lá giòn giòn, mềm mềm ấy, vo vo rồi cho vào miệng, nhấm nháp vị ngọt lẫn chát dịu, nồng nồng hương đất rừng và nắng gió Trường Sơn. Hoài nhận xét: “Mùi, vị rau này giống rau ngót ở miền Bắc!”. Hải tiếp lời: “Quê em lại có rau bồ ngót có mùi vị giống loại rau này, nhưng lá nhỏ hơn”. Hải hỏi: “Có phải đó là loại cây thâm thấp, hay được trồng quanh vườn làm bờ rào không?”. Hải ngạc nhiên: “Sao anh biết?”. Hoài cười: “Anh đoán mò đó mà. Vậy thì rau ngót quê anh với rau bồ ngót quê em, chỉ là một thôi!”. Quanh quẩn cả nửa tiếng đồng hồ, hai anh em mới hái đủ rau nấu một nồi canh. Thực ra, vì Hải muốn hái độc một món rau ranh nên mới lâu thế, chứ hái rau khác thì chỉ một loáng là thừa ăn.
Hải lấy gạo, cho vào ăng gô (một kiểu cặp lồng), đem ra suối vo. Gạo ở chiến trường có rất nhiều loại. Khi ở Ban, được cung cấp lương thực từ kho, thường gặp loại gạo đã để lâu, sinh ra mọt rất nhiều. Những con mọt bé bằng đầu tăm, mầu hơi đo đỏ, đen đen, ngày đêm gặm nhấm, làm cho nhiều hạt gạo bị rỗng ra, khi đem vo, nổi lềnh bềnh. Lại có loại gạo bị lẫn rất nhiều sạn. Không có rá để đãi sạn, người ta phải vo, khuấy, lắng, đãi dần từng lớp gạo, lọc sạn lại. Có khi, chỉ một ăng gô gạo, mà có tới một vốc sạn. Tuy ở đội sản xuất, không gặp tình trạng ấy, nhưng lại phải ăn thứ gạo “đá”. Ở miền núi có thứ lúa rất dễ gieo trồng, khỏe mạnh, năng suất khá, nhưng hạt rất cứng cho nên được gọi là gạo “đá”. Nếu nấu như gạo bình thường, cơm vẫn chín, nhưng ăn cứng như đá, không nuốt nổi. Để cơm mềm, phải vo gạo sớm, để ráo nước cả tiếng đồng hồ, khi nấu phải ninh như người ta hầm bắp. Vo gạo xong, Hải mới cùng Hoài kiếm củi. Rừng cây tươi tốt, những cây chò không bị gẫy cành, cho nên rất hiếm củi khô. Hải trấn an Hoài: "Không lo, anh. Em thấy có nhiều cây trường lắm. Mà gỗ trường tươi, còn bén lửa nhanh và cháy đượm hơn củi khô”. Cây trường không lớn, dễ chặt, chẻ ra thấy rơm rớm nhựa đỏ như máu. Hai anh em chặt, chẻ một lúc đã được một đống củi trường to tướng.
Hải nhen bếp. Chỉ một loáng, ngọn lửa hồng đã bùng lên, nổ lép bép, vui mắt, vui tai làm sao. Hai ăng gô cơm được treo trên ngọn lửa, sôi lọc bọc, đảm bảo cho bốn người ăn hai bữa - chiều nay và sáng mai.
Cơm cạn, Hải dụi lửa, chỉ để lại những hòn than rực hồng.
Trong khi chờ Giáo và Nhơn về, hai anh em thủng thẳng dạo thăm rừng. Hoài chỉ vào một cây chò cao vút, nói: "Hồi còn công tác ở Tây Bắc, anh đã từng gặp cả cánh rừng chò nguyên sinh vào mùa hoa nở. Hoa chò mọc ở đầu cành, cánh hoa màu vàng, có mùi thơm nhẹ. Dù ở tít trên cao, nhưng hoa chò vẫn tỏa xuống hương thơm dìu dịu. Gỗ cây chò cũng thơm như vậy".
Không biết do nghe Hoài nói hấp dẫn quá, hay cây chò này đang toả hương, mà Hải lim dim mắt, cánh mũi phập phồng, lồng ngực cũng phập phồng... Lát sau, Hải mở mắt, nở nụ cười hiền hậu: "Hương rừng Chò thơm quá, mà lại ấm quá anh ơi!". Cảm xúc dễ được lan truyền, Hoài cũng thấy rừng Chò sao mà thơm, sao mà ấm! Hai anh em ngồi xuống bộ rễ cây chò êm êm, tựa lưng vào thân cây chò thô ráp, tận hưởng những giây phút thanh bình của thời chiến.
Giáo, Nhơn vẫn chưa về. Hoài bảo Hải: “Anh đi gọi, xem thế nào, em nhé!”. Rồi Hoài đứng lên, rảo bước về phía con suối, đi xuôi xuống. Qua một đoạn dốc, con suối bỗng dưng trải rộng ra, chảy mạnh hơn, rì rà rì rào. Hoài đứng lặng một lúc, lắng nghe bản tình ca dạt dào của thiên nhiên, rồi chậm rãi đi trên bờ cát mịn màng dọc con suối. Nhìn quanh, không thấy ai, Hoài bắc tay hú to mấy tiếng. Vẫn không thấy ai, Hoài đi tới tận cuối bãi cát, bắt gặp một chiếc gùi đặt trên một tảng đá bằng phẳng, đó là chiếc gùi mà Giáo và Nhơn đem theo lúc chiều. Lo lắng, không hiểu chuyện gì xảy ra với hai người, Hoài lại bắc tay lên miệng, hú gọi. Tiếng hú vang lên, kéo dài, va vào rừng cây, tạo thành thứ âm thanh rền rền, âm âm, nghe là lạ. Hoài đi tiếp, gặp một đồi cỏ tranh lớn. Cỏ mọc cao lút đầu người, dày, xanh, dập dờn gợn sóng theo chiều gió. Đang mải quan sát đồi tranh, Hoài giật nảy mình khi thấy nhô lên hai bóng người. Hóa ra, đó là Giáo và Nhơn. Hai người vạch cỏ tiến ra, đầu tóc rối bù; Nhơn, váy áo xộc xệch, Giáo, chỉ có mỗi chiếc quần đùi…
Hai người không nói không rằng, chỉ nhìn Hoài và cười ngượng nghịu. Giáo vuốt vuốt mái tóc, rồi lại vò vò, làm cho nó rối tung lên. Nhơn xốc lại chiếc váy, lại làm cho một chiếc cúc áo bung ra. Tự nhiên, Hoài cũng gãi gãi đầu, không nói gì được, chỉ cười trừ.
Tới bãi nghỉ, Giáo gọi to: “Hải ơi, có cá chình, anh bắt về đây này!”. Hải đang nằm thiu thiu trên võng, vội tung bọc võng ra, bật xuống đất, reo vui: “Ôi, cá chình, cá chình cơ à?”. Cá chình là loại thức ăn cao cấp ở rừng núi này, không dễ kiếm. Hồi ở Ban, Hoài đã được vài lần ăn cá chình do anh em câu hoặc bắt được từ sông Thanh. Thịt cá chình nạc, chắc, ngọt, ăn một lại muốn ăn mười, nhưng cá ít, người đông, mỗi người cũng chỉ được một lát nhỏ. Lần này, bốn anh em mà có cả một con cá to bằng bắp chân, tha hồ thưởng thức. Giáo bảo, cùng Nhơn đi xuôi con suối, tim bắt mãi cũng chỉ được một ăng gô ốc, đã thất vọng, nhưng khi quay lên, nghỉ chân ở bãi cát mới thấy có “mà” cá chình nên bắt được con này. Trong khi Hải đem cá ra làm, thì Hoài ngồi “khai thác” chuyện của Giáo về “mà” cá chình, chuyện bắt cá chình. Giáo cứ cười hề hề: “Có gì đâu mà kể!”. Hoài vật nài: “Chuyện cá chình mà lại không hấp dẫn à? “Mà” cá chình là gì? Bắt cá chình thế nào? Làm sao mà anh bắt được con cá to như thế, trong khi chẳng có lưới, cũng chẳng có câu?”.
Được khích lệ, Giáo hứng chí:
- Cá chình, thứ cá da trơn, trên sông, suối Trường Sơn này, có mà vô thiên lủng! Có con to bằng một thằng bé, dài cả mét…
- Úi úi… - Định cắt ngang lời Giáo vì thấy anh nói hơi bốc, khéo lại giống chuyện “Con rắn vuông”, nhưng sợ Giáo mất hứng, Hoài lại im.
Chớp mắt, nuốt khan đánh ực một cái, Giáo tiếp:
- Bắt cá chình, dễ lắm. Trên núi này, có hai cách: Một là câu. Hai là lặn xuống, mò vào hang, xiên. Câu ấy à, thường thôi. Bí quyết là bắt được con cá niên còn sống, mắc đuôi nó vào lưỡi câu, thả trước hang có cá chình. Bọn này chúa thích ăn cá niên, cho nên trông thấy cá niên bơi lội trước mắt, sẽ tợp mồi ngay. Lặn bắt cá mới đáng bàn. Phải dài hơi, lặn sâu, lặn lâu để đủ thời gian thò thuốn sắt vào hang, thọc, ngoáy, giật, kéo con cá ra.
Ngừng lại nhìn Hoài đang chăm chú nghe, Giáo hạ giọng, vẻ quan trọng:
- Nói dễ mà không phải dễ. Dù câu hay bắt, cũng phải biết “mà” của nó mới được!
- “Mà” là thứ gì?
- À, là dấu vết của con cá cho biết nơi nó ở. Phải nhìn tinh mới thấy; trước miệng hang, cá bơi qua bơi lại nhiều nên cát phẳng hơn và lõm xuống một chút. Cứ nhìn thấy “mà”, là biết trong hang có cá chình.
- Như anh, câu hay bắt nó đấy?
- Bắt chứ có cần câu đâu mà câu! Mình mà thèm câu à!
Thấy Hoài cứ tròn mắt ngạc nhiên, Giáo lấy trong giỏ ra một thanh sắt tròn, to cỡ chiếc đũa, đầu nhọn hoắt, có ngạnh, giải thích:
- Đây, phải dùng cái này để xiên con cá trong hang, kéo ra!
Hoài thán phục thật sự:
- Anh xứng đáng là Yết Kiêu của Đội ta.
Giáo cười tít cả mắt, trông hồn hậu, đáng mến làm sao. Bất chợt thấy Nhơn tựa vào thân cây nhìn mình đắm đuối, Giáo cúi mặt xuống, im thin thít. Hoài nhìn hai người, ngẫm nghĩ: “Đúng là gay to rồi!”.
Bốn người bắc đá làm ghế ngồi quanh “mâm cơm”, gồm ăng gô cơm, ăng gô canh và mấy khúc cá chình nướng, đặt trên miếng lá chuối rừng. Trong nhóm này, chị Nhơn lớn tuổi nhất, hơn Giáo và Hoài bốn tuổi, hơn Hải tới tám tuổi, được coi như chị cả. Chị người dân tộc Cor, Trà Bồng, Quảng Ngãi. Chị nấu ăn ngon nên được phân công làm cấp dưỡng cho Đội. Hôm nay, chị hái được thứ lá rừng gì đó, bọc cá, nướng trên bếp than, làm thành món nướng hấp dẫn lạ thường. Món canh ốc cũng đặc biệt. Các chú ốc được chị Nhơn rửa sạch, chặt bớt phần đuôi, rồi nấu với rau ranh, được một ăng gô canh ngọt lừ. Hoài đã quen ăn ốc kiểu này: không cần dùng tăm hay kim khêu mà dùng miệng hút tụt thịt ốc từ trong vỏ ra. Ăn món canh ốc với rau ranh, thấy ngọt lừ, nhớ lại câu ca dân gian mà Hải nói với anh hồi chiều, Hoài nhận xét: “Rau ranh ốc đá hợp lại, vị ngon ngang với canh cá của người miền núi!”.
Bữa cơm kéo dài trong câu chuyện rôm rả về đủ loại thức ăn của rừng, xen với tiếng hút ốc chùn chụt, tạo nên một không khí vui vẻ, thân tình hiếm có.
Cơm xong, Nhơn đem bi đông ra, rót cho mỗi người lưng nắp ăng gô nước. Chị bảo: “Nước sâm cau đấy, uống đi cho khỏe!”. Trên những khu rừng miền Tây Quảng Nam có một loài cây nhỏ thân gỗ, lá dài, củ như chùm rễ, được gọi là sâm cau. Củ của nó chỉ to, dài hơn ngón tay, khi nấu, cho một thứ nước giải khát vị ngọt thanh, giúp cơ thể hồi phục sức khỏe khá hiệu nghiệm. Quanh khu vực của đội sản xuất cũng có loại cây này, nhưng phải lùng sục trong rừng rất mất công, khi đào cũng rất vất vả vì nơi sâm mọc đất rất cứng. Không biết ngoài giờ làm bếp núc, chị Nhơn đã bỏ ra bao nhiêu thời gian để đi kiếm loại củ rừng quý hiếm này? Hoài thầm cảm ơn người phụ nữ chu đáo, cứ lặng lẽ phục vụ đồng đội từng miếng ăn, thức uống, chưa bao giờ thốt lên một lời ca thán, kể cả những lúc thiếu thốn nhất, đến hạt muối cũng không có. Hoài nhớ có đợt bị hết muối, mà mưa dai dẳng cả tuần lễ, nước sông, suối dâng cao, lũ băng băng, không thể đi mua muối, chị Nhơn đem cỏ tranh đốt lấy tro thay muối, nó cũng có vị hơi mằn mặn, chan chát, giúp anh em bớt cơn đói muối. Ai đã từng bị đói muối mới thấy giá trị của hạt muối lớn lao đến nhường nào. Khi bị thiếu muối dài ngày, cơ thể người ta rã rời ra, đau đầu, chóng mặt, rối loạn ý thức, mất tập trung, buồn nôn... Hồi ở ngoài Ban, khi đến bệnh viện, Hoài đã chứng kiến một bệnh nhân phải cấp cứu vì bị đói muối lâu ngày, nặng đến mức đã co giật, hôn mê, tụt huyết áp, tưởng không qua khỏi. Nắm tro cỏ tranh mà chị Nhơn làm ra cho anh em, có tác dụng hạn chế những hệ lụy do thiếu muối gây ra, có thể chị cũng không biết được giá trị của nó, nhưng với Hoài, đó là một sáng kiến lớn lao, biểu hiện của tinh thần trách nhiệm cao và tình thương yêu đồng đội vô bờ bến, đáng trân trọng.
Chị Nhơn đang ở cái độ đậm đà nhất của người phụ nữ, với dáng vóc cân đối, thân hình chắc nịch, bộ ngực căng tràn. Nước da nâu nâu, khuôn mặt góc cạnh nhưng không thô, cặp mắt tròn, sáng trong, chị có cái đẹp hoang dã, bản năng. Chợt nhớ đến cảnh tượng hồi chiều ở đồi tranh, Hoài thấy lo lo cho chị.
Bốn người lặng lẽ nhâm nhi nước sâm rừng, thứ nước ngòn ngọt, thanh thanh chứa đựng tinh túy của núi rừng, cảm thấy tâm hồn sảng khoái lạ thường.
Không biết hôm nay là ngày mấy âm lịch, mà trăng lên sớm thế. Trăng chưa tròn, nhưng sáng lung linh. Ánh trăng xuyên qua các vòm lá, đọng lại thành những bông hoa nhiều cánh trên mặt đất. Khi gió và lá vờn nhau xao động, những bông hoa ấy lại thay hình đổi dạng, chập chờn, huyền ảo. Hoài ngắm những bông hoa lạ ấy, nhớ tới thời niên thiếu, được xem kính vạn hoa, cũng có những hình hoa biến ảo như thế này. Cuộc đời dâu bể, có ai ngờ cậu học sinh Hà Nội lại trở thành anh nông dân Trường Sơn, biết canh tác theo phương pháp cổ xưa nhất, mà vẫn cùng đồng bào, đồng chí tạo nên những mùa lúa, ngô, khoai, sắn nuôi sống những đội quân cách mạng, chờ ngày xuống đồng bằng đánh đuổi bọn giặc cướp nước, đem lại hòa bình, thống nhất cho Tổ quốc.
Thấy ba bạn cũng im lặng như mình, Hoài đứng lên, rủ:
- Mình ra thác nước ngắm trăng đi!
Lúc này, trời lành lạnh, nhưng không ai thấy ngại ngùng, mà đều hăng hái tiến về phía dòng suối. Ở đây, bầu trời được mở rộng ra, thoáng đãng, trong trẻo. Mặt trăng lung linh, tỏa ánh sáng dìu dịu xuống khu rừng. Dòng nước reo vui, bãi cát trải rộng, mờ mờ ảo mộng mời chào. Hoài hỏi Giáo:
- Hang có cá chình đâu Giáo ơi?
- Ở kia kìa! – Giáo chỉ tay về phía đầu vụng nước, nơi có những tảng đá lớn chồng lên nhau.
Những tảng đá im lìm, in bóng đen trầm mặc xuống dòng nước; nước trong leo lẻo, chảy băng băng, lấp lóa phản chiếu ánh trăng, tạo nên bức tranh tương phản, chứa đựng bao bí ẩn của thiên nhiên hoang dã. Hoài chịu, không thể hình dung được cái “mà” cá chình như thế nào. Mà có biết “mà” cá chình, thì cũng chẳng thể nào lặn bắt được nó.
Trong ánh trăng thanh, bầu không khí lành lạnh, mọi người kể với nhau chuyện về quê hương, những kỷ niệm ngọt ngào, ấm áp, mà bây giờ đã trở thành dĩ vãng, không biết bao giờ có thể có lại được. Cả những kỷ niệm buồn đau, cay đắng, họ cũng chia sẻ cho nhau, trong sự cảm thông của tình đồng chí. Nhơn không thể nào quên được trận bom Mỹ dội xuống ngôi làng người Cor Trà Bồng, cướp đi những người thân của chị. Giáo nhớ mãi những ngày trốn lính đầy sợ hãi, nhục nhã. Hải kể lại những ngày địch dồn dân, lập ấp chiến lược, cả gia đình bị lùa vào khu dồn, chỉ có mỗi mình Hải cùng mấy bạn đi lên đồi hái củi là không bị bắt, rồi vượt vùng ranh, lên căn cứ tham gia cách mạng. Hoài nhớ mãi thời học sinh, khi học cấp hai vẫn hay cùng các bạn ra bãi đá ven sông Hồng học bài, lúc rảnh rỗi thì xem phim ở rạp Tháng Tám, ngày hè lại cùng các bạn tham gia lao động ở Kim Lan, cùng bà con nông dân thu hoạch lúa, mà cảm thấy mùi rơm rạ còn thơm nồng tới tận bây giờ. Hoài kể về những cảnh đẹp của Hà Nội, những công trình thể hiện ý chí thống nhất đất đất nước, như Câu lạc bộ Thông nhất, Công viên Thống nhất… Hải xuýt xoa: “Miền Bắc chắc là giầu, đẹp lắm anh nhỉ. Ước gì em được ra thăm miền Bắc !”. Hoài thủ thỉ, giọng chân thực: “Miền Bắc đẹp lắm. Miền Bắc là hậu phương vững chắc cho miền Nam chúng ta. Khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân/Quân không thiếu một người” thể hiện tinh thần của miền Bắc vì miền Nam ruột thịt. Nhưng, bị chiến tranh tàn phá, phải dồn lực cho tiền tuyến, miền Bắc còn nghèo lắm. Sau này thống nhất, chắc chắn còn phải mất nhiều công sức xây dựng mới làm cho miền Bắc giầu đẹp lên như Hải hình dung”. Hải, Nhơn, Giáo lặng nghe trong niềm xúc động chân thành, khao khát đến ngày thống nhất được ra miền Bắc thăm Hồ Gươm – Cầu Thê húc - Tháp Rùa, thăm Chùa Một Cột, dạo chơi trong công viên Thống Nhất…
Mãi khuya, mọi người mới về lều, lên võng, phủ bọc. Giáo, Nhơn nhanh chóng đi vào giấc ngủ. Hoài, Hải còn thức, nhưng không dám nói chuyện vì sợ ảnh hưởng tới hai đồng đội.
Dần dần, tất cả chìm vào sự im lặng của đêm. Hoài có một giấc ngủ dài và sâu, đầu nhẹ nhõm, lâng lâng. Chỉ đến khi con tắc kè kêu lên hai tiếng “Tắc… kè…” gọi bạn tình, Hoài mới bừng tỉnh giấc. Nhẹ nhàng ngồi dậy, Hoài thấy Hải vẫn ngủ yên, nhưng võng Giáo và Nhơn có vẻ không có người nằm. Nhẹ nhàng xuống đất, xỏ dép, vòng về phía võng của hai người, Hoài thấy chúng trống trơn. Đoán chắc chuyện gì đang xảy ra, Hoài bấm đèn pin, đi về phía suối nước. Bãi cát vắng tanh, nhờ nhờ trắng dưới ánh sáng trăng. Hoài dò dẫm về phía đồi tranh. Và rồi, anh nghe thấy những tiếng động lạ thường. Tiếng người phụ nữ “hực… hực” kèm theo tiếng rên rỉ. Tiếng người đàn ông thở hào hển. Tiếng quần lộn trên cỏ tranh nghe xào xạo…
Hoài hiểu mọi chuyện là gì rồi. Cỏ tranh, một khi để lá của nó cứa vào da thịt, có thể bị thương, rất sót. Thế nhưng, nếu khéo léo ép chúng nằm rạp về một phía, có thể tạo nên một tấm nệm êm… Giáo và Nhơn, chắc là đang tận hưởng những khoái cảm nhục dục trên tấm đệm thiên nhiên êm ái ấy… Hoài đứng lặng, suy nghĩ một lúc, rồi lầm lũi trở về lều…
Mọi người dậy sớm, ăn sáng rồi hăm hở đi về rừng ông Xây. Hoài không thể ngờ rằng lại có nhiều người đến lấy thịt voi đến thế. Hóa ra, ở chiến trường, có miếng ngon là mọi người nhanh chóng thông báo cho nhau cùng khai thác để cùng được hưởng. Nhìn con voi to như một quả đồi nhỏ nẳm phủ phục, đầu bị đạn rốc két do máy bay Mỹ bắn bay một nửa, thân xác bị xẻ nham nhở, Hoài thấy đau xót quá. Với con voi to như vậy, nặng hàng mấy tấn, thì không thể nào lấy được phần thịt nằm phía dưới, vì vướng bộ xương, cũng không thể lật thân mình nó lên. Cho nên, mọi người chỉ lấy vòi, chân – được cho là rất ngon – cùng thịt ở phần trên của thân voi. Với phương tiện chỉ là những con dao, con rựa, cùng lắm là chiếc rìu, mọi người hì hục chặt, xẻ, xẻo, mồ hôi mồ kê đổ ra nhễ nhại.
Bất ngờ, Hoài gặp ông Chanh, chị H’Ly, em H’Len và một thanh niên khác trong nóc ông Chanh, đã tới lấy thịt voi từ sớm, chuẩn bị ra về. Ông Chanh bảo Hoài – đang đứng trông gùi đồ cho Giáo vào lấy thịt voi: “Mình có hai cái bàn chân voi, mình cho cán bộ một chiếc, đem về nấu ăn cho mạnh chân, khỏe tay!”. Nói là làm, ông Chanh mở gùi, lấy chiếc bàn chân voi, chuyển ngay vào gùi của Hoài. Nhớ tới ăng gô cá chỉnh nướng để dành từ chiều hôm qua, Hoài đem ra sẻ một nửa, lấy lá dong gói lại, đưa cho ông Chanh.
Tháng 6, lúa đã chín vàng, công việc vô cùng bận rộn. Đồng bào nóc Ông Chanh vào giúp sức Đội Làng Tuyên theo hình thức đổi công. Lúa của Đội Làng Tuyên chín trước, đồng bào kéo vào giúp thu hoạch. Tới khi lúa của đồng bào chín, anh em trong Đội lại lên rẫy cùng đồng bào suốt lúa (thu hoạch bằng cách dùng tay tuốt từng bông lúa, hứng hạt lúa vào gùi). Nếu làm chưa đủ công, thì Đội trả cho đồng bào những vật dụng thiết yếu như muối, vải, rựa... Đồng bào rất nghèo, chỉ tới khi thu hoạch lúa mới đủ ăn, nhưng mặc thì vô cùng thiếu thốn. Hoài không khỏi ái ngại khi thấy những cô gái đang tuổi dậy thì mà phải mặc những chiếc áo rách rưới, hở cả da thịt. Có những em bé chỉ khoảng tám, chín tuổi cũng đến làm - làm như người lớn vậy. Hoài thấy thương chúng vô hạn. Ở cái tuổi đó, đáng lẽ các em chỉ việc ăn, học và chơi đùa. Song cuộc sống khắc nghiệt quá, nó đòi hỏi các em phải vươn lên quá sức mình.
Vậy mà bọn giặc Mỹ không để yên, chúng liên tục lên vùng căn cứ quấy phá. Mới hôm trước, chúng cho máy bay B.52 rải bom ở Nước Boa. Hôm nay, chúng rải bom vào rẫy lúa của Đội Làng Tuyên. Lúc này, anh em trong Đội và đồng bào nóc Ông Chanh đang cùng nhau suốt lúa ở rẫy số hai và số ba. Giáo, Hoài, Hải, chị H’Ly, em H’Len suốt lúa ở mé bên phải rẫy số ba. Mới hơn bảy giờ sáng, Hoài đã nghe hai tiếng nổ oàng oàng phía rừng đầu rẫy. Với linh tính cực nhạy, Hoài biết ngay là B.52 Mỹ thả bom rải thảm. Anh hô lớn: “B.52! Chạy xuống bụi lồ ô mau!”. Mọi người vừa nhảy vào hố đất sau bụi lồ ô, hàng loạt bom đã rơi, nổ như sấm rền. Bụi đất, khói bom bay mù mịt. Mùi thuốc bom khét lẹt. Mùi đất nồng nồng. Mùi cỏ cây hăng hắc. Tất cả trộn với nhau thành một mùi chết chóc. Gạt một cành cây đè trên người, vươn mình đứng dậy, Hoài hỏi: “Mọi người có sao không?”. “Không sao!”, tiếng Giáo, Hải đáp lại rành rọt. Hoài quan sát một lượt: Rẫy lúa tan hoang. Đầu rẫy, một hố bom toang hoác. Nhìn quanh, Hoài thấy chị H’Ly và em H’Len nằm bẹp ở bờ hố đất. Hoài và Giáo vội vàng tới kéo hai người khỏi hố. Thấy máu trên mặt chị H’Ly, trên tay em H’Len, Hải khóc nấc lên. Nhưng rồi, Hải nín bặt khi nghe tiếng kêu của H’Ly, H’Len: “Đau quá!”. Hải đỡ H’Len dậy, thấy một vết thương cắt ngang bắp tay của em. Hải lấy cuốn băng cứu thương, bình tĩnh cuốn chặt vết thương cho H’Len. Trong khi chị H’ly ngồi dựa vào Giáo, Hoài lấy khăn lau máu trên mặt chị để tìm vết thương. Khi chiếc khăn lướt qua môi, chị nảy người lên, không kêu được. Ôi, một mảnh bom đã cắt ngang môi dưới của chị. Không thể nào băng bó được, Hoài đành lấy đoạn băng cuốn quanh một cục bông dịt vào vết thương và bảo chị giữ chặt lấy. Hoài tê tái với ý nghĩ: Vết thương đã hủy hoại làn môi, làm sao mà chị còn thổi kèn và hát được nữa. Giọng hát cao vút của núi rừng lẽ nào sẽ phải nín nặng bởi bom giặc Mỹ!
Mọi người nhanh chóng rời khỏi rẫy, đề phòng lũ B.52 rải tiếp thảm bom nữa. Trước đây, chúng thường rải đi rải lại ba lần đối với một mục tiêu, sau này còn hai lần, có khi chỉ một lần. Nhưng cứ phải đề phòng, không biết lũ giặc trời này hành động kiểu gì. Lê lết dìu nhau đi, không lâu sau, cả nhóm về tới nhà của Đội sản xuất.
Một lúc sau, Bá chạy về. Chưa tới ngõ, anh đã nói: “Kho ngô hư hết rồi!” – Như vậy có nghĩa là không bị tổn thương về người. Rồi Tạo, Hiến chạy về. Hiến bị một vết xước nhỏ trên đầu, máu chảy ri rỉ như bị vắt cắn; anh em xúm lại rửa thuốc và băng cho anh. Tạo ngồi thở, mồ hôi ra đầm đìa. Cậu ta đột ngột cười to, nói trong tiếng cười: “Khỏi chết. B52 chụp trên đầu vẫn không chết”. Rồi thì Huy, Nhị chạy về, bình an cả. Anh em cho biết lũ B52 bắt đầu rải ”tấm thảm bom” của chúng từ rẫy hai, kéo qua rẫy ba và nối dài qua Nước Lon, qua giải núi bên kia. Anh em đều nằm giữa “tấm thảm” đó. Hiến nằm giữa triền dốc, gần bụi lồ ô. Phía đó, một quả bom đào đã làm bay mất cả bụi lồ ô. Phía sau Hiến vài mét, hai quả bom khác đào hai lỗ sâu hoắm. Vậy mà không giết nổi Hiến, chỉ làm anh bị trầy da đầu và mất một chiếc dép cao su. Tạo, Bá cũng nằm gần mấy hố bom, nghe bom nổ chát chúa, váng đầu, ù tai mà không hề bị thương tích. Anh Bá quay sang thăm hỏi H’Ly, H’Len và cử Huy, Tạo đưa hai người bị thương đi bệnh viện.
Bom làm sập kho ngô của đội và hư một số lúa của rẫy hai, ba. Cũng may mà kho chỉ sập xuống đất, không bay mất trái ngô nào. Anh Bá huy động toàn lực lượng đi cõng hết số ngô đó về nhà. Đông người nên chỉ qua chiều hôm sau là đã chuyển hết ngô. Hai mái gà cùng một đàn gà con cũng được chuyển về. Dù sao, B52 cũng giết được hai con gà nhỏ của Đội. Tuy nhiên, bầy gà con vẫn điềm tĩnh chiêm chiếp theo mẹ kiếm ăn, không tỏ ra sợ hãi gì.
Công việc lại đi theo nếp của nó. Suốt xong lúa rẫy năm, Đội kéo về rẫy ba, suốt nốt số lúa còn lại. Hai quả bom nổ ở bìa rẫy làm hư nhiều lúa. Ngoài số bị đào bới, bị đất lấp, còn có nhiều khóm lúa bị sức ép làm cho tả tơi, nát nhừ tận gốc. Những cây ở xa cũng bị chấn động, gẫy rất nhiều bông, rụng rất nhiều hạt. Mọi người phải cặm cụi nhặt từng bông lúa, hạt thóc dưới đất lên.
Toàn Đội cảnh giác đề phòng những đợt bom B52 tiếp theo, song không thấy lũ giặc trời khổng lồ này xuất hiện. Thay vào đó, là lũ máy bay trực thăng thi nhau quần lượn bắn phá, hoặc rải chất độc trên các nương rẫy. Nước Tong, Nước Ngheo, Trà Niêu... đã bị hứng những trận mưa hóa chất độc rồi. Không biết khi nào bọn trực thăng tới quấy nhiễu nơi này? Khi đi làm rẫy, một số anh em trong Đội mang theo súng đạn, sẵn sàng nện cho lũ quỉ độc ác đó những đòn đích đáng.
Vào đầu tháng, Hoài được phân công cùng ba đồng chí khác đi cõng muối, mua hàng. Hôm ấy, chiều muộn, Hải đem cho Hoài một lon lương khô và nói: “Em mới làm. Nhưng cũng chỉ có xì dầu, muối với củ nén thôi!”. Đặt lon lương khô bên cạnh chiếc gùi của Hoài, Hải nói tiếp: “Anh đưa em chiếc áo bị sứt nút, em đơm lại cho!”. Hơi ngạc nhiên, định hỏi là tại sao Hải biết cái áo bị đứt cúc, nhưng rồi lại thôi, Hoài mở ba lô lấy ra chiếc áo bà ba màu xanh lá cây đưa cho Hải. Chỉ một lát, Hải đã khâu xong. Đưa chiếc áo cho Hoài, Hải cười cười: “Không có nút cùng kiểu, em đơm chiếc nút này, có dị không anh?”. Hoài chưa kịp trả lời, Hải đã nói tiếp: “Còn tấm vải mưa bị rách, đem ra vá đi anh!”. Hoài lại ngoan ngoãn đem ra tấm vải đi mưa bị toạc một miếng vì bị ngoắc vào cành cây nhọn khi Hoài cõng ngô từ rẫy về. Tấm vải mưa mầu xanh lục của anh đã có hai nốt vá. Hai nốt này to bằng nửa bàn tay, được Hoài dùng dầu vắt để hàn lại. Nhưng, do hết dầu vắt, Hoài vẫn chưa hàn được vết thủng mới này. Đón tấm vải mưa từ tay Hoài, Hải trải nó lên mặt bàn, vuốt thẳng, lấy giẻ lau kỹ phần có vết thủng. Xong, cô móc túi lấy ra một miếng vải mưa mầu xanh, lau sạch, đặt đè lên nơi có vết thủng. Một chiếc thìa canh bằng I nốc được Hải hơ nóng rực trên ngọn lửa đèn dầu. Hoài bảo: “Em sáng kiến thật, dùng cái này thay dầu vắt à?”, rồi cầm lấy chiếc thìa từ tay Hải. Phối hợp nhịp nhàng, Hải giữ một góc tấm vải mưa để cho Hải áp chiếc thìa lên bề mặt nó và miết đi miết lại. Chỉ mấy lần làm như vậy, miếng vải mưa đã được hàn kín nơi rách. Trong khi gấp tấm vải mưa lại, Hoài bảo Hải: “Ở nhà, em làm nốt bài tập toán, khi về, anh sẽ chữa, nhé!”. Vừa lúc ấy, Nhơn gọi mọi người xuống bếp ăn cơm.
Chuyến đi cõng hàng đúng vào những ngày trời mưa dầm dề. Qua Trà Niêu, Hoài sững sờ nhìn cánh đồng lúa ở đây bị chết rụi vì chất độc hóa học của Mỹ. Máy bay HUIA cũng mới bắn chết hai con trâu của đồng bào. Họ xẻ hết thịt nhưng còn để lại đó một cái đầu to tướng.
Lúc trở về, Hoài cõng gùi muối đi trong cơn mưa lâm thâm. Người sũng nước. Bao muối ướt mèm, nước nhỏ giọt, nhỏ giọt vào lưng áo, rát vô cùng. Tới bờ sông Tang, Hoài và anh em phải dừng lại - nước lũ đã chắn mất đường. Sông không rộng lắm, nhưng nhiều đá. Ngày thường, nước chỉ tới bắp chân, chảy khá mạnh, song vẫn lội qua được. Mưa nhiều, nước trở nên lớn và hung dữ vô cùng. Dòng nước đục ngầu, nhấn chìm rất nhiều mỏm đá trước đây vẫn nhô cao. Nước xoáy vào đá, tung bọt trắng xóa. Bây giờ trời tạnh, nước rút dần. Cả nhóm cứ ngồi đó nhìn mức nước đang xuống một cách chậm chạp, hy vọng tới buổi trưa có thể qua được sông. Song, trời đã sầm mặt lại, chuẩn bị một cơn mưa khác. Đành ở lại, chờ đến ngày mai.
Cũng may, đến gần tồi, trời sáng dần ra, trong lại, không mưa. Nhưng, muộn rồi, không thể vượt sông đi tiếp.
Khi đang chuẩn bị nơi dăng tăng, mắc võng, Hoài bỗng nghe thấy tiếng đàn ghi ta, tiếng hát vang vang từ phía đỉnh dốc. Chạy ra, nhìn lên, Hoài reo to: “Thanh Đính, anh Thanh Đính đến kìa!”. Trước mắt Hoài, một người đàn ông tầm thước, dáng nhanh nhẹn, vừa đàn hát, vừa gùi một gùi hàng xuống dốc. Đó chính là Thanh Đính, người ca sĩ nổi tiếng toàn Khu bởi giọng hát nam cao trong sáng và nhiệt tình phục vụ vô điều kiện. Hoài đã chứng kiến, anh hát theo yêu cầu của mọi người ở mọi nơi, mọi lúc. Hát trên thuyền, với bài Qua sông. Hát trên đỉnh dốc, với bài Trên đỉnh Trường Sơn ta hát. Hát trên đường giao liên, với bài Đường tôi đi dài theo đất nước, Anh quân bưu vui tính... Nghĩa là anh có đủ các bài hát hợp với các hoàn cảnh khác nhau để phục vụ công chúng. Dù chỉ có một khán giả, anh cũng phục vụ.
Đến tận chân dốc đón Thanh Đính, Hoài cầm hộ anh chiếc đàn ghi ta và kéo anh cùng một thanh niên đi về phía rừng lòn bon mà nhóm của Hoài đặt làm nơi trú chân. Giúp Thanh Đính hạ gùi hàng xuống, Hoài hỏi: “Anh đi cõng hàng từ hôm nào?”. Gạt mồ hôi đang túa ra trên trán, Thanh Đính cười: “Ừ, mình và Thảo đi cõng hàng cho Tiểu ban, hôm nay là ngày thứ sáu rồi!”. Tạo vồn vã: “Vui quá, có anh, tối nay sẽ vui lắm!”, Nói chưa dứt câu, Tạo đã xăng xái dọn cây, xếp chỗ cho Thanh Đính và Thảo dăng tăng, mắc võng.
Tối hôm ấy, trên bãi cát ven sông, một cuộc liên hoan văn nghệ diễn ra sôi nổi, ấm cúng. Giá như không sợ máy bay phát hiện ra ánh lửa, thì đã có một đêm lửa trại tuyệt vời. Nhưng thôi, ánh trăng thanh cũng đủ soi sáng cho cuộc vui độc đáo này. Thanh Đính nói rằng anh có thể hát suốt đêm phục vụ khán giả, nhưng anh muốn mọi người cùng hát, thế mới là cùng vui. Tất cả tán thành, nhưng yêu cầu anh hát trước, và tất nhiên phải hát nhiều bài, vì “anh là ca sĩ chuyên nghiệp”. Thanh Đính ôm ghi ta, vừa đàn vừa hát theo yêu cầu khán giả. Những bài hát qua tiếng đàn, giọng ca của anh nói lên hộ những con người đang tham gia cuộc kháng chiến ở miền Trung này biết bao điều thầm kín. Thẳm sâu là tình yêu quê hương, yêu con người, yêu hòa bình. Để chấm dứt chương trình của mình, Thanh Đính hát một bài hát có từ thời mới kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp: “Hòa bình thành phố yên vui đón anh bộ đội... Đồng ruộng của ta thẳng cánh cò bay/Chồng cày vợ cấy thoả chí từ nay/A từ nay thoả chí vun trồng/ Xây dựng nên nước giầu dân mạnh /Ta cùng là ấm no....”. Tất cả đứng dậy vỗ tay vang trời. Thanh Đính đã hát lên khát vọng cháy bỏng của mỗi người, ai mà chả mong được về quê, được người thân chào đón trong không khí hòa bình, yên vui để xây dựng một cuộc sống ấm no.
Tiếng vỗ tay vừa dứt, một thiếu nữ dáng người cao to đứng dậy tự giới thiệu: “Em là Thanh Thúy, cán bộ binh vận. Em học ở Liên Xô về nên cùng với bạn em hát hai bài hát Liên Xô”. Thanh Đính dạo đàn luôn, bài Thời thanh niên sôi nổi; Thanh Thúy cùng hai bạn nam cất giọng: “Lòng ta hằng mong muốn và ước mơ/Bàn tay son sắt giương cao ngọn cờ/Thề ngàn đời bền vững tổ quốc ta...”. Tiếp đó là bài Cuộc sống ơi, ta mến yêu người: “Cả tỉnh yêu trao cuộc sống/ Có thấy chăng ơi cuộc đời tình ta thắm nồng“... “Cuộc đời ơi, người còn nhớ/Có biết bao gương hy sinh của những chiến binh/Họ nằm xuống cho mùa xuân/Mùa xuân xanh như đoá hoa mai ngày thức dậy/Cho ta thấy yêu cuộc đời/Yêu cuộc sống trong lao động kiến thiết nước nhà”. Ba người hòa thanh quyện quá, tiếng hát vừa ấm áp, ngọt ngào, vừa mạnh mẽ, thiết tha, lại có phần ngậm ngùi, chua xót. Sau bài hát, mọi người lặng đi mấy giây rồi mới hoan hô, bàn tán. Bài hát kéo mọi người trở lại thực tế, một thực tế nghiệt ngã của chiến trường, mà ở đó, sự hi sinh, mất mát là không thể tránh khỏi.
Cuộc vui kéo dài tới nửa đêm. Phải nghỉ để sáng còn vượt sông, hành quân tiếp. Mọi người giải tán trong niềm vui, trong suy tư và trong nuối tiếc, giá đêm vui được kéo dài thêm. Tuy vậy, anh Thanh Đính chưa nghỉ. Anh cầm một cuốn sổ, bấm đèn pin đến với từng nhóm, đề nghị họ ghi cảm tưởng! Ở Trường Sơn, ra khỏi nhà là phải mang vác nặng, mà anh Thanh Đính vẫn luôn luôn đem theo một cuốn sổ dày cộp, nặng trịch để ghi chép về những cuộc biểu diễn của mình, kèm đó là cảm tưởng của khán giả. Cứ nhìn cuốn sổ, Hoài lại thầm cảm phục anh, phải có tình yêu nghề tha thiết, có trách nhiệm cao với cuộc sống như thế nào, thì mới làm được những việc mất công sức, tỉ mẩn như vậy. Hoài liên tưởng, rồi đây, cuốn sổ sẽ là một biên niên sử sống động về hoạt động của văn nghệ sĩ trong chiến trường, khó đánh giá được hết giá trị của nó! Trong sổ ghi hôm nay, có một đoạn đặc biệt viết bằng tiếng Nga. Đó là dòng ghi của Thanh Thúy, cô biết Thanh Đính từng học thanh nhạc ở Liên Xô, nên đã tặng anh những dòng chữ rất riêng như vậy.
Sáng, nước đã rút bớt, không còn đục nữa, song vẫn chảy rất xiết. Dù sao cũng phải vượt sông. Hàng chục người bị ứ ở hai bên bờ sông, cùng kéo ra xem xét, la ó. Tạo cởi trần lội xuống sông dò mực nước. Cậu ta to, khoẻ nên đã băng được sang sông, tìm ra nơi có thể lội qua. Một số người không phải mang hành lý nặng, theo con đường mà Tạo “khai phá” mạnh bạo lội qua. Trong nhóm này, một cô gái dáng người to, cao lội đến giữa dòng sông thì trượt chân, bị nước cuốn trôi. Mọi người lo lắng hò hét, bất lực vì không tìm được cách cứu cô. Cô vẫn bị cuốn băng băng, dập dềnh trên mặt nước. Có lúc, cô bị xô vào tảng đá, bật sang bên và chìm nghỉm. Hoài chợt nhận ra cô, chính là Thanh Thúy, người đã hát liền hai bài hát Liên Xô rất hay tối hôm qua. Hoài mím môi, nén tim, dõi nhìn. Đã tưởng hết hi vọng, lại thấy cô gái ngoi lên, sải tay bơi vào bờ. Ào, ào, nước tiếp tục cuốn cô đi. Gan góc, cô nhoài người hướng vào bờ. Nước vẫn cuốn mạnh, hướng cô về thác. Nhào! Cô đã bám được vào cành rù rì ven sông! Hoài người thở phào, nhẹ nhõm.
Nhìn cảnh cô gái trôi trên sông, suýt mất mạng, Hoài rùng mình nhớ tới chuyện một cô gái Dân y bị nước cuốn trong mùa mưa năm ngoái. Đó là Đào, mới hai mươi tuổi, y sĩ, người Hải Dương. Cũng vào những ngày mưa như thế này, Đào cùng ba đồng chí đi cõng gạo ngoài trạm Xã hội chủ nghĩa về cho cơ quan. Các trạm giao liên trên đường Trường Sơn chia làm hai loại: Loại ở phía Bắc, do Quân đội Nhân dân Việt Nam quản lý, gọi là trạm Xã hội chủ nghĩa; loại ở phía Nam, do Quân Giải phóng quản lý, gọi là trạm Giải phóng. Ra cõng gạo Xã hội chủ nghĩa, tức là cõng gạo được chuyển từ miền Bắc vào, và trạm ở rất xa. Chuyến cõng gạo ấy, vừa đi vừa về hết chín ngày. Tới ngày thứ chín, sắp về tới Ban Dân y Khu, thì trời mưa lớn. Con sông Trà Nô chắn đường về, đang dâng nước lên mỗi lúc một cao. Mọi người quyết định phải nhanh chóng vượt sông, khi nước mới lên ngang thắt lưng, vẫn còn lội qua được. Mỗi người bọc bao gạo của mình trong bọc ni lông dày, cõng qua sông. Đào sức yếu hơn, dò dẫm từng bước, trong khi ba người bạn đã gần vào tới bờ. Bất ngờ nước trở nên lạnh buốt, một cơn lũ đổ về cuồn cuộn, trong chớp nhoáng cuốn băng Đào xuống phía hạ lưu. Ba người bạn chỉ mới kịp nhào vào bờ, bất lực nhìn Đào dập dềnh trên sóng nước rồi mất hút... Mãi năm ngày sau, khi nước rút, người ta mới tìm thấy xác Đào bị mắc trên ngọn cây lộc vừng cổ thụ mọc bên sông, cách bến lội ba cây số!
Cảnh tượng vừa rồi làm cho những người vượt sông nhụt chí. Có mấy anh nắm chặt tay nhau, cứ thậm thà thậm thụt ở bờ nước, không dám tiến ra. Nhưng rồi, cũng phải có người liều mạng! Mấy anh dân tộc thiểu số dùng gậy chống, băng qua dòng nước chảy xiết và miệng la lối, cười nói liên hồi. Những tốp đã qua được bờ bên kia nối nhau thành một sợi dây để kéo người đi sau vượt qua đoạn cuối. Họ la: “Cố lên, nhanh lên!”. Một cô gái dân tộc thiểu số bám chặt trên lưng một anh bộ đội cao lênh khênh - anh ta khoẻ thật, cứ cõng cô gái mà lội băng tới bờ bên kia. Một anh dân tộc thiểu số khác nắm tay một cô gái Kinh dìu qua sông. Song, khi vừa nhớm chân xuống nước, cô ta liền thụt lại và kêu lên choé, choé như tiếng vượn vậy. Anh thanh niên đã lội xuống nước, không quay lại mà lội nhanh hơn, kéo mạnh tay cô gái. Cô ta vẫn kêu choe choé, vùng vẫy, nhưng vẫn lội theo anh. Khi qua được bờ rồi, để mặc quần áo ướt sũng dính bết vào người, cô cười ngặt ngẽo và kêu lên: “Khỏi chết, khỏi chết rồi!”. Nhộn nhà nhộn nhạo khắp khúc sông, thế mà vui đáo để.
Tạo vác bao muối của Hoài lội qua trước. Có lúc cậu ta bị trượt chân, lao đao giữa dòng nước chảy băng băng, làm cho Hoài lo thót tim. Song, Tạo đã gượng lại được, vượt sang bờ bên kia. Cứ thế, Tạo vác bao muối, thùng dầu và hai thùng mắm sang sông an toàn, lại vác hộ gùi hàng cho anh Thanh Đính, rồi quay lại dìu Hoài qua sông. Anh chàng này tính tình vui vẻ, yêu đời đến hồn nhiên, vô tư. Hồi được cử về Ban học văn hóa, lớp tập trung, Tạo làm cho cả lớp ngỡ ngàng vì tội... yêu cô giáo. Sau nửa tháng học tập, ngày nào Tạo cũng viết một lá thư gửi cô giáo, kẹp vào vở bài tập, thổ lộ tình yêu với cô: “Cô giáo ơi, anh yêu cô giáo lắm!”. Cô giáo mới từ Hà Nội vào, tuổi còn non, kinh nghiệm trường đời chưa có, nhận thư đến lần thứ ba thì hốt hoảng, khóc ngay trên lớp. Lớp trưởng lên hỏi han, xem bức thư, vừa buồn cười vừa giận. Thế là chàng Tạo, vì mắc tội yêu cô giáo, mà bị cho ra khỏi lớp, chuyển về đội sản xuất. Hôm tổ chức buổi họp chia tay, Tạo đứng lên nói bô bô: “Dù thế nào, tôi cũng yêu cô giáo! Cô giáo ơi, đừng giận anh nhé!”. Thế là cô giáo lại khóc hu hu lần nữa!
Chuyến cõng hàng đã hoàn tất. Cùng với muối, Đội có cả hai thùng mắm cá cơm, một thùng dầu phộng. Mua được dầu phộng là một điều may mắn. Nhiều chuyến xuống đồng bằng, không tài nào lùng được dầu phộng, một loại dầu ngon lành được ép từ đậu phộng (củ lạc) đặc hiệu Việt Nam, anh em đành mua dầu nhập khẩu, trong đó, nếu không may mua phải dầu “Con sò”, thì gay go. Gọi là dầu “Con sò” vì trên thùng đựng nó có gắn một đề can hình con sò mầu xanh. Thứ dầu này, dù dùng để rán hay xào, nấu, khi ăn, đều không tiêu hóa được. Chỉ sau bữa ăn ít giờ, dầu tự thải ra bằng đường hậu môn; nhiều anh, sau bữa ăn thứ dầu đó, bơi dưới nước để lại một dòng váng dầu mầu xanh chạy dài phía sau, như chiếc tàu thủy để lại dòng nước sủi bọt sau đuôi tàu.
*
Chuyển bao muối vào nhà bếp, Hoài vội vàng đi tắm rửa, thay quần áo – nước muối thấm khắp người, xót không chịu nổi. Khi về tới đầu nhà, Hoài đã thấy Hải đứng chờ. Giọng Hải chứa đầy niềm vui: “Anh, vô nhà, xem cái này, hay lắm!”.
Trong ánh nắng yếu ớt của buổi chiều tà, Hải đưa cho Hoài tờ báo Cờ Giải phóng và Tạp chí Văn nghệ Giải phóng, cười rạng rỡ: “Anh xem đi, báo và tạp chí đăng bài của anh đây nè!”. Trong khi Hoài lật lật từng trang báo, tạp chí, Hải thủ thỉ: “Anh viết lúc nào mà hay vậy. Báo có bài về Đội mình dù bị bom B.52 “đấm lưng”, vẫn thu hoạch lúa, ngô, trồng thêm nhiều sắn. Tạp chí lại có bài “Chú giao liên vùng giáp ranh”, anh viết lúc nào mà tài vậy?”. Hoài cười, nhìn Hải trìu mến: “Anh tranh thủ viết vào buổi tối, không ngờ cả báo và tạp chí đều đăng cho!”. Hải khen một cách chân thành: “Anh viết hay quá chừng. Viết về Đội mình, em thấy toàn là những việc mà hàng ngày chúng ta làm, nhưng sao nó lại hấp dẫn thế. Còn chuyện chú giao liên nữa, đọc mà em thấy như mình đang cùng anh đi dưới đồng bằng, vượt qua bao nguy hiểm. Chú bé ấy dễ thương quá, có thực hả anh?”. Hải giải thích: “Đây là bài ký, cho nên nó là thực hoàn toàn, em ạ!”. Nhìn Hải chăm chú nghe, Hoài thấy một làn hơi sưởi ấm toàn thân mình, lan tỏa cả căn phòng trống trải. Cô gái này rất ham đọc sách, báo. Có buổi trưa, Hải đọc cả một truyện ngắn trong tạp chí Văn nghệ giải phóng cho Hoài nghe nữa. Lại có buổi, Hải đọc trên báo Cờ Giải phóng bài viết về một nữ cán bộ binh vận đã dũng cảm, mưu trí vận động được mười lính ngụy, trong đó có một thiếu úy, bỏ súng về với nhân dân, cho Hoài nghe, rồi nói: “Anh ơi, chị Hồng này giỏi quá, đã làm cho cả thiếu úy địch giác ngộ bỏ súng!”. Hoài giải thích thêm cho Hải về chính sách hòa hợp dân tộc của Mặt trận dân tộc giải phóng, âm mưu thâm độc của đế quốc Mỹ kế tục chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp, gây nên cảnh “nồi da xáo thịt” ở nước ta, và nói, chính những người làm báo như Hoài cũng có nhiệm vụ giúp binh lính địch thấy rõ âm mưu cướp nước của đế quốc Mỹ, không để chúng lợi dụng xương máu của mình làm công cụ chiến tranh, quay súng trở về với gia đình, với nhân dân, để cho đất nước được hòa bình, thống nhất, độc lập. Hoài nói thêm, chính việc sản xuất tại căn cứ địa, tạo ra của cải vật chất nuôi quân, cũng là hành động thiết thực đóng góp vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Thấy Hải tiếp thu rất nhanh những vấn đề chính trị - xã hội, Hoài tin rằng, nếu có điều kiện, chắc chắn Hải sẽ học giỏi. Biết đâu, Hải sẽ trở thành một nhà báo. Nghĩ đến đấy, trong Hoài dào dạt niềm khao khát ngày chiến thắng, đất nước sạch bóng quân xâm lược, để cho Hải được học hành...
*
Không ngờ đội Làng Tuyên có một ngày vui như thế. Anh Tân, anh Chi đi công tác đồng bằng, ghé qua để lấy lương thực phục vụ chuyến hành quân dài ngày. Chi là phóng viên nhiếp ảnh. Tân là công nhân buồng tối. Hai người đem máy móc, hóa chất vào tận Bình Định thực hiện nhiệm vụ giúp Tỉnh đào tạo phóng viên và công nhân nhiếp ảnh. Hoài quấn lấy hai anh, chuyện trò say sưa về nghề ảnh. Khi công tác ở ngoài Bắc, Hoài kiêm luôn phóng viên nhiếp ảnh. Anh còn tự học, thuộc lòng công thức hàng chục bài thuốc, tự làm mọi việc từ chụp ảnh tới pha thuốc, tráng phim, in phóng ảnh. Tiếc rằng, đi chiến trường, anh không có điều kiện làm cái nghề tay trái rất thú vị ấy của mình. Bây giờ gặp người trong nghề ảnh, nỗi nhớ nghề trỗi dậy khiến Hoài thấy bồi hồi, xao xuyến.
Chuẩn bị cho Tân, Chi bốn ruột nghé gạo vào loại ngon, anh Bá ân cần bảo: “Hai anh nghỉ thêm ở đây một ngày, rồi hãy đi!”. Hai anh vui vẻ nhận lời. Chi cởi mở: “Sẵn có phim, máy, tôi chụp mấy tấm ảnh kỷ niệm cho Đội ta nhé!”. Thế thì còn gì bằng! Anh Bá vui mừng nhận lời, và cho toàn Đội nghỉ một buổi sáng để nghỉ ngơi, chụp ảnh.
Sau khi ăn sáng, cả Đội cùng hai anh Tân, Chi kéo ra rẫy ngô cũ để có đủ ánh sáng chụp ảnh. Đầu tiên, là ảnh tập thể. Toàn đội xếp thành hai hàng trước máy ảnh. Mặt nhiều người trang nghiêm như đang đứng tuyên thệ. Có người chưa bao giờ đứng trước ống kính máy ảnh, không thể nào tự nhiên được, người ngay ra, mặt đuỗn đuột. Tân, vốn tính hay bông đùa, trêu: “Nào, vui lên chứ. Mặt cứ thuỗn ra như ngỗng ỉa thế này, hỏng mất ảnh của tôi!”. Thế mà cũng không ăn thua. Chi bèn bảo: “Bây giờ, tôi chưa chụp ảnh đâu. Cứ đứng như vậy, tôi hô “nói” thì mọi người hô “nghe” nhé! À không, anh Tân hô, tôi cầm máy ngắm thử thôi!”.
Tân đùa:
- Máy nó không cắn người đâu, đừng sợ. Nào, mọi người cứ đứng ngay hàng thẳng lối như thế này, hô theo tôi nhé !
Chờ một lát cho mọi người ổn định vị trí, Tân hô:
- Bắt đầu “Nói – Nghe”, cứ liên tục “Nói... Nghe” nhé!
- Nói... Nghe... Nói... Nghe...
Khu rừng rộn lên với lời hô “Nói – Nghe” đầy nhiệt huyết. Một lúc sau, Chi bảo: “Được rồi, ảnh tập thể sẽ đẹp, ai cũng cười!”. Hoài biết ngay đây là thủ thuật của những người chụp ảnh có kinh nghiệm, làm giảm bớt căng thẳng cho những người chưa quen chụp ảnh. Khi nói “Nghe!”, miệng ai chả nhếch ra, giống như đang cười.
Không được phép sử dụng nhiều phim, Chi chỉ chụp thêm hai ảnh cho hai nhóm: nhóm nữ bốn người, nhóm nam mười sáu người, và đặc biệt là chụp riêng cho anh Bá một kiểu. Anh Bá nhất quyết từ chối, bảo rằng mình không có quyền được ưu tiên. Chi phải nói một cách nghiêm trang: “Đồng chí là Đội trưởng Đội sản xuất, một người có thành tích mà Ban đã tuyên dương nhiều lần. Tôi cần ảnh của đồng chí làm tư liệu, vì vậy đồng chí nên chấp hành!”. Chi còn nói thêm: “Chị Tám cũng là lao động xuất sắc, được Ban tuyên dương, tôi cũng chụp ảnh rồi. Ai lao động xuất sắc, tôi đều có nhiệm vụ ghi lại ảnh làm tài liệu, phục vụ yêu cầu tuyên truyền. Bây giờ đến lượt đồng chí, nhanh chóng vào chỗ!”. Anh Bá đành ngồi một mình trước ống kính của Chi. Tân đạo diễn: “Ngồi ngay ngắn, hai tay để trên đùi, xòe ra để ảnh có đủ mười ngón tay. Nào, nhìn tôi. Anh Chi chuẩn bị. Anh Bá nói theo tôi Ve... vẻ vè ve... “.
Thấy anh Bá đã ngồi ngay ngắn, hai tay đặt trên dùi, hai bàn tay xòe đủ mười ngón, anh Tân hô: “Vẻ vè ve... Anh Bá hô theo đi. Vẻ vè ve ... ve...”. Chi bấm máy, lấy làm mãn nguyện - trông anh Bá tự nhiên, mép nhếch một nụ cười khiêm tốn.
Khi rời rẫy, đi bên Tân, Hoài bảo: “Ta phóng ảnh luôn cho anh em phấn khởi!”. Tân trả lời: “Ừ, có máy phóng ảnh đây. Nhưng làm gì có điện!”. Hoài kể: “Hồi ở Sơn la, không có điện, bọn tôi dùng ánh sáng trời!”. Tân đập tay vào lưng Hoài đánh bộp một cái: “Ừ, lấy ánh sáng trời, có thế mà cũng không nghĩ ra!”. Ngay trong buổi sáng, Giáo, Hoài, Hiến và Tạo xúm vào dựng một cái chòi giữa rẫy ngô cũ làm buồng tối. Chiếc máy phóng ảnh của Liên xô được đặt giữa chòi, lấy ánh sáng từ một lỗ khoét trên nóc chòi. Trong khi đó, Chi đã tráng phim bằng cái hộp chuyên dụng và phơi dưới bóng râm. Có kinh nghiệm chụp ảnh ở rừng núi - do ẩm ướt, phim lại gần hết hạn sử dụng, độ nhạy giảm, Chi đã tăng khẩu độ, giảm tốc độ, đảm bảo phim bắt sáng vừa đủ, sẽ cho bức ảnh ưng ý.
Hoài cùng Tân, Chi ngồi làm ảnh. Ánh sáng đỏ, mùi hóa chất nồng nồng, ngai ngái gợi cho Hoài nhớ tới những ngày hoạt động ở Sơn La. Anh đã lên tận vùng cao Sông Mã, đến với đồng bào H’Mông, Thái, Xá... làm tin, chụp ảnh. Cũng với những căn buồng tối dã chiến kiểu này, Hoài đã làm không biết bao nhiêu bức ảnh vừa phục vụ hoạt động báo chí, vừa phục vụ đồng bào. Có một cô gái H’Mông, khi xem ảnh của mình, lại thốt lên: “Cái đứa nào đây mà đẹp thế?”. Cô thực sự không nhận ra mình, vì chưa bao giờ được soi gương, bây giờ thấy ảnh, lại tưởng là người khác.
Theo sự hướng dẫn của Tân, Hải đem những tấm ảnh mới được phóng ra suối, nhẹ nhàng nhúng xuống nước, lấy tay xoa lên mặt từng tấm ảnh, rồi ngâm nó trong cái rổ mây được đặt giữa dòng nước chảy xiết. Cầm bức ảnh chụp toàn đội, Hải chợt mỉm cười một mình – không biết do ai sắp đặt, mà Hải lại đứng liền với Hoài, đầu hơi ngả sang vai anh. Trong ảnh, cả đội đều tươi cười, và may quá, không có ai nhắm mắt.
Suốt buổi tối hôm ấy, cả đội tập trung xem ảnh, nói cười rổn rảng, hồn nhiên như trẻ thơ...
*
Trong khi tập trung làm nương rẫy, Đội Làng Tuyên cũng dành thời gian chỉnh trang nơi ăn chốn ở. Đội đã làm thêm một căn nhà nhỏ, dành riêng cho bốn nữ đội viên. Thú vị nhất, là theo đề xuất của Hoài, Đội đã làm một chiếc cối giã gạo hoạt dộng nhờ sức nước. Tuy không phải là dân kỹ thuật, nhưng Hoài cũng vận dụng những điều mình biết được qua thực tế khi còn công tác ở Tây Bắc để thiết kế một chiếc cối giã gạo tự động. Anh nhớ, đồng bào Tây Bắc có hai cách để tận dụng sức nước làm cối giã gạo: Cách thứ nhất là dùng máng dẫn nước, cách thứ hai là dùng cọn nước; cả hai đều chuyển năng lượng từ động năng của nước thành động lực nâng chày, hạ chày cho chiếc cối, khiến nó tự động giã gạo cần mẫn ngày đêm. Hoài chọn cách thứ nhất, vì nó phù hợp với nơi này – có thể dùng lồ ô nối với nhau thành một máng nước dài, dẫn nước từ con thác nhỏ phía trên bếp về. Vẽ được, nhưng “chế tác” thì phải nhờ vào những bàn tay khéo léo của Giáo và anh Bá. Chỉ với rìu, rựa, anh Bá và Giáo chặt cây, tạo hình, làm nên chiếc cối, chầy đặc biệt, phần đuôi to hơn toàn thân chày, được đục thành chiếc máng gỗ lớn, hứng nước tạo động lực nâng chày. Máng dẫn nước, đơn giản hơn, được Tạo, Hiến làm chỉ trong một buổi, đã dẫn về dòng nước trong vắt, chảy ào ào vào máng cối. Khi nước đầy, chầy tự động bênh lên cao, xối hết nước, rồi hạ mạnh xuống – thế là hoàn thành một nhịp giã gạo. Chị Nhơn và Hải đem thóc ra, bỏ vào cối và hồi hộp nhìn chiếc chày nâng lên, hạ xuống, tạo nên những tiếng thịch, thịch đều đều, dần dần giã giập vỏ trấu, làm lộ ra những hạt gạo với lớp cám hồng hồng. Từ đó, bên suối nước Leng có một căn chòi với chiếc cối, ngày đêm tự động giã gạo, vừa giảm công sức của mọi người, vừa làm cho không khí nơi này thêm vui.
Có hôm, ngồi bên cối gạo, Hoài hỏi chị Nhơn: “Hồi này trông chị khang khác, có chuyện gì không?”. Chị Nhơn lắc đầu: “Đâu có chuyện gì!”, nhưng lại cụp mắt, nhìn xuống bụng mình.
Hoài cũng rủ Giáo ra bờ suối tâm tình. Hoài hỏi:
- Giáo, ông có định lấy vợ không?
Giáo tỏ ra ngạc nhiên:
- Tại sao ông lại hỏi mình như vậy?
- Vì, khi ở rừng Chò, mình biết chuyện rồi!
Hoài biết, Giáo có lúc bốc đồng, nhưng vốn tính thực thà, chắc sẽ không giấu diếm chuyện mà Hoài nói tới. Quả nhiên, Giáo kể cho Hoài nghe liền một mạch chuyện của mình với chị Nhơn. Với Giáo, chị Nhơn chỉ như một đồng chí lớn tuổi hơn, đáng mến. Chưa khi nào Giáo có tình cảm luyến ái với chị. Nhưng, cái hôm ở rừng Chò, hai người đã bước sang mối quan hệ đặc biệt. Hôm ấy, xuống suối, chỉ một loáng là hai người đã bắt được đầy một túi ốc. Định đi tìm đoạn suối nào có nhiều đá với những hang nhỏ để bắt cá, thì Giáo nhìn thấy “mà’ cá chình trước một hang đá lớn. Giáo bảo chị Nhơn ngồi trên bờ, còn mình cởi đồ, chỉ mặc chiếc quần lót, bơi về phía hang đá đó. Chỉ lặn hụp ba lần, Giáo đã lần ra hang có cá. Rồi, chỉ một hơi lặn, Giáo đã lôi được con cá chỉnh to tướng ra khỏi hang. Giáo cầm con cá, vẫn bị cái móc sắt xiên qua người, tiến về phía chị Nhơn. Nước lấp lánh trên cơ thể tuy không vạm vỡ, nhưng săn chắc của Giáo. Nước làm cho chiếc quần lót dính chặt, hằn lên bộ phận nhạy cảm của đàn ông. Chị Nhơn đưa chiếc gùi cho Giáo thả cá vào rồi đột nhiên ôm chầm lấy Giáo... Thế rồi hai người dắt díu nhau lên đồi tranh. Nệm cỏ tranh êm ái đã đưa hai người vào cơn cuồng say. Xong việc, Giáo định đứng dạy, thì chị Nhơn kéo lại. Nằm trên nệm cỏ êm êm, dưới bầu trời xanh dìu dịu, hai người nghe hơi thở hào hển của nhau, rồi lại cuốn nhau vào cuộc giao hoan kéo dài và cuồng nhiệt. Đó chính là lý do làm cho hai người mãi gần tối mới đem cá, ốc về lều. Và, chị Nhơn, người đàn bà tràn đầy sinh lực, người đàn bà hoang dã, bản năng, đêm đó lại giật giật võng Giáo, rủ đi...
Hoài tỏ ra thông cảm với Giáo, nhưng thể hiện sự lo lắng cho chị Nhơn:
- Nhỡ có chuyện gì, thì chị Nhơn làm sao chịu nổi? Giáo phải có trách nhiệm với chị ấy.
Giáo ngồi lặng thinh, không nói gì. Chỉ có tiếng nước suối chảy, lúc thì róc rách reo vui, khi lại xô vào hang đá oàm oạp, nghe rờn rợn.
Hoài, Giáo, Hải, Minh được phân công chuyển thực phẩm từ đồng bằng lên. Trong nhóm có một người mới, là Minh, một cán bộ ngoài bốn mươi tuổi, vừa từ Ban vào tham gia sản xuất.
Hồi này, lính Mỹ tăng cường dùng các loại máy bay trực thăng đánh chặn các cửa khẩu, thậm chí tấn công vào vùng căn cứ của ta. Cửa khẩu Sơn Hòa vốn an toàn, đông vui, thì nay trở thành chiến địa ác liệt, rải rác đây đó những nấm mồ đắp vội.
Bốn người đã vượt qua cái cửa khẩu chết chóc đó, lầm lũi cõng bốn gùi hàng nặng tiến dần về vùng văn cứ. Khu rừng Mồ côi đón họ bằng tiếng suối róc rách reo vui. Gọi là Mồ côi, bởi khu rừng này nằm trơ chọi giữa một vùng đồi cỏ rộng lớn. Giữa ba bề bốn bên bao là cỏ, khu rừng này nổi lên khác thường, toàn là cây cổ thụ xanh ngăn ngắt, với hình con cá quẫy đuôi, kéo dài khoảng vài cây số, nối với con dốc Bình Minh bằng một triền đồi cũng toàn một thứ cỏ dày, mọc sát mặt đất. Qua khỏi dốc Bình Minh là rừng cây ngút ngàn, dẫn về vùng căn cứ.
Đi gần hết khu rừng Mồ côi, gặp con suối chảy từ hướng Tây xuống, mọi người hạ gùi, ngồi lên những tảng đá bằng phẳng, đón cơn gió mát rượi từ đồi cỏ thổi thốc vào. Khi đã ráo mồ hôi, cả bốn lội xuống suối vục tay, tạt nước lên mặt, hưởng trọn cái mát lành của thiên nhiên. Minh vục nước suối vào bi đông, đổ vào đó gói bột cam, lắc lắc. Loại bột này có vị chua chua, ngọt ngọt, giống nước cam, được đóng thành từng gói nhỏ, đủ pha với một bi đông nước. Minh bảo để lên đến đỉnh dốc Bình Minh sẽ cùng nhau giải khát. Thứ bột đặc biệt này là hàng quân nhu của quân đội Mỹ, được các sĩ quan người Việt tuồn ra bán lậu trên thị trường. Không hiểu bằng cách nào, Minh còn mua được cho mình cả mấy lon đồ hộp cùng với cái mở hộp bằng thép đặc biệt mà lính Mỹ được trang bị. Có vẻ rất hiểu thị trường miền Nam, Minh bảo: “Lính Mỹ được trang bị thứ gì thì thị trường Sài gòn có đủ thứ nấy. Chỉ cần có tiền thôi. Mua lương thực, thực phẩm, chứ muốn mua cả máy bay tàu chiến cũng được. Mình không nói điêu đâu!”.
Khi Giáo bảo mọi người đứng dạy chuẩn bị vượt dốc, Hải nói: “Các anh đi trước, em ở lại tắm một lát, rồi lên sau. Cứ đợi em ở đỉnh dốc!”. Hoài dặn Hải tắm nhanh nhanh, tránh bị cảm. Tỏ ra hiểu biết về phụ nữ, Giáo thúc mọi người khẩn trương lên đường. Giáo rủ rỉ với Hoài: “Em Hải đến tháng rồi! Tội nghiệp, “hành quân” giữa những ngày trèo đèo lội suối thế này...”. Giáo bỏ lửng câu nói, vẻ mặt rầu rầu.
Hoài, Giáo, Minh cõng gùi, lặng lẽ ra khỏi khu rừng Mồ côi, đi lên đồi cỏ. Trời dịu nắng, gió phóng khoáng nâng bước ba người. Họ mạnh chân băng qua đồi cỏ, vượt lên dốc Bình Minh. Con dốc này khá cao, thẳng, nằm giữa một khu rừng non, cây cối lúp xúp. Tới đỉnh dốc, ba người hạ gùi, ngồi tựa vào các gốc cây, nhìn xuống đồi cỏ và khu rừng Mồ côi. Những cơn gió như ngựa hoang chạy lồng trên ngọn cỏ, bị chặn bởi con dốc, càng cuồng nhiệt hơn, phóng ngược lên, ào ào. Ba người phanh ngực áo đón gió. Trước tầm mắt Hoài là trời, đất mênh mông. Một vùng đồi cỏ miên man nối dài từ chân dốc Bình Minh tới vùng đồng bằng mờ xa, phủ đầy mầu xanh xanh, vàng vàng của loài cỏ không rõ tên mọc sát đất, tràn đầy sức sống. Giữa vùng đồi cỏ, nổi bật lên mầu xanh đậm đà hình con cá quẫy đuôi của cánh rừng Mồ côi. Giá như không có chiến tranh, được đi khắp miền Nam – Bắc, thăm thú những miền đất xanh tươi như thế này, thì hạnh phúc biết bao! Hoài lim dim mắt, tận hưởng không khí mát mẻ, thoáng đãng... Mở mắt, anh thấy Hải đã bước ra khỏi khu rừng, đang cõng gùi hàng mải miết bước trên đồi cỏ. Nhìn dáng Hải đi như cúi gập trước sức nặng của gùi hàng, Hoài trào lên nỗi xót thương. Em, cũng như bao chị em ở miền Nam này, chịu đựng quá nhiều khó khăn, gian khổ.
- Thôi, chết rồi! – Tiếng thét của Giáo làm cho Hoài bứt khỏi dòng suy tư.
Không gian bị khuấy động tưởng vỡ nát ra bởi tiếng động cơ máy bay trực thăng. Hoài nhìn thấy một chiếc tàu rọ lắng nhắng bay tới triền đồi mà Hải đang đi. Trên cao, hai chiếc trực thăng chiến đấu HU1A bay sóng đôi, lùi lũi.
Chiếc tàu rọ nhỏ như một món đồ chơi, vỏ nhựa nhìn xuyên thấu, chở hai thằng Mỹ, rà sát triền đồi. Gió từ cánh quạt khiến cỏ cây ngã rạp, làm cho Hải không bước đi nổi. Hoài định nhổm người, chạy xuống với Hải, liền bị Giáo nắm áo, kéo lại. Không súng đạn, chống chọi thế nào được với lính Mỹ trên trực thăng, vũ khí đầy mình! Chiếc tàu rọ lượn tròn, xả đạn đại liên xuống. Những vết đạn tạo nên một vòng tròn quanh Hải. Hải nhổm lên, định chạy trở lại khu rừng Mồ côi. Chiếc tàu rọ lại xả súng xuống chặn đường. Hải dừng lại, nó lại xoay vòng, xả đạn. Hai thằng lính Mỹ này có vẻ có máu găng xtơ – chúng vờn con mồi cho khiếp hãi, cùng quẫn rồi mới giết! Quần lượn xả đạn một hồi, rồi chiếc tàu rọ ngóc đầu lên, bay đi. Hải tưởng đã thoát, liền cõng gùi hàng chạy nhanh về phía rừng. Nhưng, chiếc Tàu rọ đã quay ngoắt lại, xả một loạt đạn. Hải gục xuống... Ba chiếc máy bay gầm gừ cuốn gói.
Hoài bỏ lại gùi, chạy xuống dốc. Vừa chạy Hoài vừa gọi thảng thốt: “Hải ơi! Em ơi!”. Giáo chạy sát phía sau. Bỗng nhiên, Hoài bị Giáo xô ngã lăn quay vào vệ dốc. Giáo cũng đã nằm sát bên Hoài. Tiếng động cơ máy bay trực thăng vang rền, mỗi lúc một gần. Hai chiếc HU1A bay dọc đồi cỏ, tiến về phía dốc Bình Minh. Một phát rốc két xé không khí, nổ chát chúa trên đỉnh dốc.
Minh cũng đã bỏ gùi, chạy kịp Hoài, Giáo. Giáo bảo: “Coi chừng, chúng đổ quân!”. Vừa dứt lời, lại một tiếng Rốc két nữa nổ chát chúa trên đỉnh dốc. Súng đại liên trên máy bay vãi đạn rào rào xuống đỉnh dốc. Minh bật sang cánh rừng bên trái, chạy chéo lên núi. Hoài, Giáo cũng chạy vào cánh rừng bên trái. Hai chiếc trực thăng quần đảo trên bầu trời, liên hồi xả dạn đại liên xuống dốc Bình Minh. Những làn đạn xé không khí thuốn ào ào xuống con dốc, bắn nát những chiếc gùi hàng, hạ gục cây cối.
Chạy một đoạn, Hoài gọi Giáo: “Dừng lại thôi. Chúng không bắn nơi này!”. Giáo dừng lại, thở hổn hển: “Phải xuyên rừng mà về. Nhỡ chúng đổ quân trên đỉnh dốc!”. Hoài đứng lại, khiến Giáo cũng dừng theo. “Phải chờ xem thế nào, chưa chắc chúng đổ quân đâu!”. Nghe Hoài nói vậy, Giáo đồng tình. Hai người ẩn mình sau một cây lim, lắng nghe. Bọn trực thăng vẫn quần lượn, bắn phá. Hàng tràng đại lên nổ xé nát không khí, thỉnh thoảng xen vào tiếng Rốc két nổ chát chúa. Nhưng không nghe thấy tiếng máy bay hạ cánh.
Hai chiếc trực thăng chiến đấu đã biến khỏi bầu. Hoàng hôn dần buông. Mặt trời ẩn sau dãy núi, hắt lên bầu trời xám một chút ráng đỏ. Một màu ảm đạm bao phủ bầu trời. Một màu tang thương lan tràn mặt đất. Hoài, Giáo ra khỏi khu rừng, thận trọng đi đến nơi Hải nằm.
Hoài thấy như có một bàn tay thép lùa qua lồng ngực, bóp trái tim mình đến quặn thắt, tưởng có thể vỡ nát ra. Ruột gan nóng rát như có muôn ngàn ngọn lửa thiêu đốt. Hải ơi! Em ơi! Hoài phủ phục bên xác Hải, lúc này vẫn còn âm ấm! Gỡ thùng hàng khỏi người Hải, Hoài ôm xác Hải lên, ghì chặt vào ngực mình. Em ơi, Hải ơi, ở lại với anh!
Giáo cũng đau đớn ngồi bên xác Hải. Một hồi sau, lấy lại tỉnh táo, Giáo bàn:
- Tranh thủ chưa tối hẳn, ta mai táng cho Hải đi!
- Không được! – Hoài quát lên!
Ở chiến trường, trong các trường hợp bị hi sinh khi địch tập kích hoặc phục kích như thế này, người ta thường mai táng liệt sĩ tại chỗ. Có trường hợp địch đổ quân, đồn trú mấy ngày, khi địch rút, xác chiến sĩ ta đã trương lên, không thể khiêng đi được, mọi người đành phủ ni lông lên, xếp đá xung quanh, rồi đổ đất lấp dần đần, tạo thành ngôi mộ nổi. Với Hải, Giáo nghĩ có thể đưa vào mai táng ở khu rừng Mồ côi. Nhưng, Hoài nhất quyết không nghe. Hoài yêu cầu Giáo cùng mình chuyển Hải về căn cứ, mai táng ở gần đồng đội. Giáo thương xót, đau đớn không kém Hoài, nhưng làm cách nào mà chuyển Hải về được? Bây giờ, còn có hai người. Minh chạy bạt vào rừng, giờ này không biết ở đâu!
Vẫn ôm xác Hải, Hoài nói với Giáo, giọng kiên quyết: “Phải đưa Hải về với anh em. Phải làm đòn, khiêng Hải!”.
Biết rằng không thể lay chuyển được Hoài, Giáo đồng ý và đi lên dốc Bình Minh thu dọn đồ đạc của ba người. Các thùng mắm, dầu đều đã bị đạn bắn vỡ nát. Chỉ còn lại tăng, võng, quần áo, cũng bị đạn xuyên lỗ chỗ. Trong ráng chiều nhập nhoạng, Giáo vội vã gói ghém đồ dùng của ba người, rồi nhanh chóng trở lại khu rừng.
Khi tình hình chưa căng thẳng như bây giờ, khu rừng Mồ côi là nơi dừng chân của mọi người trước khi lên căn cứ. Còn rải rác đây đó những chiếc cọc võng, thanh ngang mắc võng, cây tre bắc làm nóc lều... Giáo nhanh chóng kiếm được một cây lồ ô nhỏ nhưng già, chắc chắn. Hai người buộc hai đầu võng vào cây lồ ô ấy, hạ xuống đất, chuyển xác Hải vào, rồi khiêng lên, gác vào hai thanh ngang buộc võng. Họ thống nhất: Nghỉ qua đêm, rồi bốn giờ sáng dạy chuyển Hải về căn cứ.
Đêm, Giáo và Hoài mắc võng nằm hai bên, còn võng của Hải ở giữa. Hoài đau đớn nhớ tới ngày nghỉ tại rừng Chò, hai người cũng nằm ngoài canh cho Hải, Nhơn; bây giờ canh cho Hải, nhưng... em ơi, còn đâu cuộc sống! Những kỷ niệm với Hải, tuy không nhiều, nhưng để lại cho Hoài bao cảm xúc, ngọt ngào có, thương cảm có. Hồi cõng hàng ở nước Oa, Hải rẽ vào kho cõng dầu, còn Hoài cùng ba thanh niên cõng ngô tiếp tục đi về hướng nóc ông Chanh, hẹn gặp nhau ở sông Tranh. Tới sông, mọi người dăng tăng, mắc võng, ăn cơm và đợi mãi mà vẫn chưa thấy Hải đến. Anh em đoán Hải gặp khó khăn gì đó, chắc là ngủ lại kho. Nhưng tới khi trời nhoà tối và lất phất mưa thì mọi người ngạc nhiên thấy Hải cắm cúi cõng thùng dầu đi tới. Đúng là Hải gặp khó khăn: thùng bị thủng mấy lỗ nhỏ, dầu chảy ra, không thể cõng đi được. Xoay sở mãi tới bốn giờ chiều mới có thùng thay, song Hải vẫn nhất quyết đi cho kịp đoàn. Trong buổi tối hôm ấy, Hoài ngồi lặng nhìn Hải ăn cơm - những hạt cơm lạnh ngắt - với chút xì dầu mặn chát, cười nói vui vẻ, mà thấy lòng mình trào lên những đợt sóng yêu thương.
Rừng Mồ côi im lặng lạ thường. Chỉ có tiếng suối chảy róc rách vô tình. Gió xào xạc, đem theo cái giá lạnh của rừng đêm lùa vào võng khiến người ta rùng mình. Hoài không ngủ, nằm lặng bên cạnh võng Hải, nhớ đến hơi thở của em nhè nhẹ, nồng ấm khi nghỉ nơi rừng Chò, mà bây giờ, sao lặng im và lạnh lẽo quá. Em ơi, bao kỷ niệm sống dạy trong anh! Tấm vải mưa bị rách mà em vá lại cho anh, vẫn còn đây, nhưng bị đạn Mỹ xuyên thủng thêm mấy lỗ rồi. Tấm áo mà em đơm cho anh chiếc cúc khác kiểu, anh đang mặc đây. Tấm áo mang hơi ấm bàn tay em, đang sưởi ấm cho anh. Tờ báo, Tạp chí có bài viết của anh, em giữ làm kỷ niệm, em để lại Đội, đang chờ em đấy!
Từ sớm tinh mơ, Giáo, Hoài đã khiêng Hải đi. Qua dốc Bình Minh, trời mới nhờ nhờ sáng. Đỉnh dốc ghi đầy dấu tích trận oanh tạc của máy bay Mỹ, cây cối trúng đạn đổ gục hàng loạt, nát nhừ, đất đai bị đạn cày xới lở loét. Giáo bảo, cũng may mà bọn địch không đổ quân, chứ nếu chúng đóng quân trên đồi này mấy ngày, thì không thể nào chuyển Hải về được.
...Cắn răng, lần bước, Hoài, Giáo tiến dần về căn cứ. Chỉ cần vượt qua một con dốc, là đã về gần đội sản xuất, đường dễ đi rồi. Thật không may, khi lên đến đỉnh dốc, Giáo bị trượt chân. Gắng gượng lắm, hai người mới khỏi ngã. Nhưng, chân Giáo đau đớn, không thể khiêng nặng được nữa. Đặt võng Hải ghếch một đầu lên rễ cây chò, một đầu gác vào tảng đá lớn, Hai người ngồi nghỉ mà lo lắng. Hoài ngồi bóp bóp chân Giáo, thấy nó đang sưng lên, liền lấy khăn thấm nước tiểu đắp vào. Hoài nghe loáng thoáng anh em bảo nhau cách chữa đau chân theo phương pháp dân gian như vậy thì làm thử, chẳng biết có công hiệu không.
Giáo đứng lên đi thử, nhưng chỉ khập khiễng bước, không có khả năng đi bình thường chứ nói gì đến chuyện khiêng vác nặng.
Ngồi lặng bên Hải, Hoài nói với Giáo:
- Bây giờ, tôi sẽ cõng Hải về rừng Chò. Giáo cố chống gậy về Đội, bảo anh em ra đó mai táng Hải!
Giáo nhìn Hoài, ái ngại. Giáo nghe đồn rằng, khi chết, con người trở nên rất nặng, cho nên cõng một xác chết, sẽ nặng gấp mấy cõng người sống, làm sao mà Hoài đủ sức! Nhưng, biết tính Hoài rất cương quyết, Giáo đành nghe theo. Anh nhắc cho Hoài nhớ đường đi gần nhất, dễ nhất tới rừng Chò, rồi cùng Hoài chuẩn bị phương tiện cõng Hải. Giáo lấy một chiếc võng dù cùng với mấy cái ruột tượng, dây võng tạo thành một chiếc địu lớn. Nhìn vẻ mặt đau đớn và cương nghị của Hoài, Giáo hiểu rằng con người này sẽ đủ sức mạnh để vượt qua mọi thử thách. Anh hô: “Nào, ta nhấc Hải lên!”.
Không biết do tình người ấm áp luôn luôn sưởi ấm cho Hải hay do trời thương, mà xác Hải vẫn mềm như người còn sống. Hai người đỡ Hải khỏi cáng, đặt lên chiếc địu. Hoài ngồi xuống áp với xác Hải. Giáo cầm hai tay Hải đặt qua vai, thòng trước ngực Hoài. Chiếc địu được kéo lên, buộc lại, áp chặt Hải vào lưng Hoài. Hoài rùng mình, cảm thấy một luồng điện chạy rần rật sau lưng. Em ơi, lúc này em vẫn sống mãnh liệt trong anh... Hoài chống gậy, từ từ nhổm dậy. Giáo ngạc nhiên thấy Hoài đứng lên rất nhẹ nhàng, và bước đi cũng nhẹ nhàng như vậy. Nhìn theo Hoài địu Hải đi từng bước vững chắc xuống dốc, tới khi Hoài tạt sang con đường mòn nhỏ phía bên phải, Giáo mới chống gậy đi theo con đường trước mặt, lần bước về Đội để huy động anh em ra rừng Chò.
*
Đến tối, nơi an nghỉ cuối cùng của Hải đã được hoàn tất. Trên nấm mồ mới đắp, Hoài phủ lên tấm vải mưa của mình, vật kỷ niệm nồng ấm với Hải mà anh đem theo suốt thời gian qua. Đầu ngôi mộ, đặt ngay ngắn một khúc gỗ chò, khắc đậm dòng chữ: Kiều Thị Hải, 1950 – 1970.
Anh chị em trong Đội đều tới rừng Chò tiễn đưa Hải. Minh đến bên Hoài, mà anh không nhận ra. Đó là một người đàn ông tóc bạc trắng, da mặt nhăn nheo! Minh phải tự xưng tên mình, rồi nói với Hoài: “Tôi hèn nhát quá. Hôm ấy, tôi cầm bi đông nước trong tay rồi chạy bán sống bán chết trong rừng. Chạy trong luồng đạn từ máy bay xả xuống, vượt qua sông, núi, về tới Đội lúc nào không hay. Tới nơi, tôi mới biết chiếc bi đông bị đạn xuyên thủng, không còn một giọt nước, tóc tôi thì bạc trắng như thế này đây! Tôi hèn nhát quá!”. Trong ánh lửa bập bùng của những bó đuốc lồ ô mà anh chị em Đội sản xuất đốt lên quanh mộ Hải, Hoài động viên Minh: “Thôi, đừng tự trách mình nữa! Ta hãy sống xứng đáng với Hải!”.
Rừng Chò hôm nay lặng gió lạ thường. Ánh đuốc bập bùng. Hương chò thoang thoảng. Tiếng người râm ran. Tất cả hòa quện vào nhau, tỏa ra hơi ấm nồng nàn.
*
Chiều hôm ấy, Hoài một mình lặng lẽ đi về phía rừng Chò. Khu rừng đã trở nên thân thiết đối với anh, bởi ở đó, có Hải đang yên giấc. Rừng Chò tỏa bóng che chở cho Hải. Tới với rừng Chò, Hoài cảm thấy có hơi ấm xua đi nỗi đau băng giá trong anh.
Hoài ngồi như tượng đá bên mộ Hải. Bao nhiêu kỷ niệm dồn về, sống động trong anh. Chính tại khu rừng này đây, bốn anh em dăng tăng, mắc võng, trao cho nhau những câu chuyện ấm tình đồng chí. Em kể lại chuyện có hôm phải đi một mình suốt hai ngày đêm trong rừng, tay không vũ khí, chỉ sợ bị hổ vồ. Em ơi, rừng Trường Sơn âm u là thế, lũ cọp beo không làm hại em; nhưng giữa thảo nguyên phóng khoáng và bầu trời hiền hòa, bọn giặc ngoại xâm lại đến cướp cuộc sống của em! Em ơi, anh đau đớn biết bao, khi thấy bọn giặc hung ác tước đoạt cuộc sống của em ngay trước mắt mình, mà bất lực, không cứu được em! Em ơi, con sóc nhỏ của chúng ta buồn biết mấy khi về thăm chúng ta, nhưng không được gặp em! À, bây giờ con sóc đã có bạn rồi, chúng đã có đôi, còn anh lại mất em!
Hoài vẫn cứ ngồi lặng thầm như vậy, cho tới khi nghe tiếng nói sau lưng: “Hoài ơi, bọn mình muốn nói chuyện với Hoài!”, Hoài mới đứng lên, lặng lẽ quay lại. Trước mắt anh là Giáo và Nhơn. Ba người ngồi xuống bên mộ Hải. Giáo ngập ngừng một lúc, rồi nói: “Mình... mình và Nhơn muốn nhờ Hoài cùng về gặp anh Bá!”. Nói tới đó, Giáo lại im. Nhơn tiếp lời: “Có cả em Hải đây, tôi muốn nói với Hoài, là anh Giáo đã nói sẽ lấy tôi!”. Giáo nói một cách chắc chắn: “Trước Hoài và Hải, tôi nói là tôi và Nhơn sẽ lấy nhau! Tôi nhờ Hoài cùng về để báo cáo chính thức với anh Bá, với Đội, chuyện của chúng tôi!”.
Giáo đã cùng anh Bá xây dựng đội sản xuất này ngay từ những ngày đầu thành lập, cùng nhau cắn răng chịu thiếu thốn, vất vả, lao động quần quật từ sớm đến tối, gắn bó biết bao nhiêu. Giáo hiểu anh Bá, một người giầu tình cảm, và sống rất chuẩn mực. Anh Bá cùng vợ thoát ly gia đình, lên căn cứ tham gia kháng chiến đã năm năm. Hai vợ chồng anh được cơ quan quý mến, bởi họ chung tình với nhau và sống đầy trách nhiệm với công việc, đầy tình nghĩa với đồng chí. Chị Tám, vợ anh Bá, làm chị nuôi, chẳng quản mệt nhọc lần mò bắt từng con ốc, hái từng cọng rau về làm bữa cho anh chị em. Chị bị trận sốt rét ác tính quật ngã, hồng cầu chỉ còn hơn một triệu rưỡi đơn vị, chỉ bằng một phần ba mức bình thường, tưởng không qua khỏi. Anh Bá đã truyền máu của mình cho vợ, chăm nom chị đến kiệt sức mình. Sức mạnh của tình vợ chồng đã giúp chị Tám có thêm năng lượng, chiến thắng thần chết. Bây giờ, anh Bá ở khu sản xuất, chị Tám vẫn làm việc tại Ban, hai người phải chịu cảnh ngưu lang chức nữ, cả năm mới gặp nhau một lần. Khi thấy Giáo có những cư xử khác thường với Nhơn, anh Bá sinh nghi, nhưng vốn tính ôn hòa, anh chỉ nhắc nhở nhẹ nhàng, chủ yếu là chỉ cho Giáo thấy trách nhiệm của mình đối với người phụ nữ, không thể vì sự vui thú của mình mà làm hại đời người ta. Chính sự nhẹ nhàng của anh, lại khiến Giáo hết sức nể sợ, không dám tự mình đến gặp anh, bộc bạch chuyện riêng tư. Cảm nhận sự thông cảm của Hoài đối với mình, và lại biết rằng anh Bá có sự quan tâm đặc biệt đến Hoài, cho nên Giáo tìm đến Hoài như một cứu cánh.
Ngay trong buổi tối hôm ấy, Hoài và Giáo gặp riêng anh Bá. Giáo cứ tưởng là chuyện vợ chồng nói ra với anh Bá lúc này, sẽ căng thẳng lắm. Cuộc chiến tranh đang tới hồi ác liệt. Đội sản xuất ngày một gánh vác trách nhiệm nặng nề hơn để cung cấp lương thực cho Ban. Chuyện riêng tư lúc này, có thể ảnh hưởng tới nhịp sống, lao động chung. Thế nhưng, anh Bá không hề làm căng, cũng không hề tỏ ra ngạc nhiên. Anh cười hồn hậu: “Mình đang chờ Giáo nói chuyện này. Mình mừng cho hai đồng chí. Hai đồng chí xem, có thể tổ chức cưới sớm. Và mình sẽ phân công người phụ giúp đồng chí Nhơn, để Nhơn bớt việc, khỏi ảnh hưởng tới cháu bé...”. Giáo toát mồ hôi hột. Người bí thư Chi bộ, đội trưởng sản xuất này biết mọi chuyện rồi, ngay cả chuyện cái thai đang lớn dần trong Nhơn! Trời ơi, Giáo hạnh phúc biết mấy khi được sống giữa những người đồng chí thân thương như thế này. Anh Bá, tính tình sởi lởi, bận rộn bao nhiêu với việc sản xuất, chăm lo cho toàn thể anh em trong Đội, lại còn một lòng vun đắp hạnh phúc cho Giáo và Nhơn. Hoài, người thanh niên Hà Nội, có một tình yêu thầm kín nhưng mãnh liệt, trong sáng; tình yêu ấy âm thầm tiếp lửa cho anh. Giáo bỗng cảm thấy yêu Nhơn vô cùng và tự hứa với lòng mình sẽ cùng Nhơn vượt qua mọi thử thách, vun đắp hạnh phúc ngay cả khi chiến tranh muốn cướp đi cuộc sống bình thường của con người.
Anh Bá quay sang nói với Hoài:
- Ban rất khen Đội mình. Lương thực cung cấp ra cho Ban rất đầy đủ. Tình hình chiến trường đang tiến triển tốt. Cần người phản ánh kịp thời phong trào đấu tranh và nổi dậy của quân dân ta, Ban điều Hoài về để đi Quảng Đà.
Anh Bá tiếp lời:
- Còn một tin vui nữa: Đảng Ủy vừa họp, đã có Quyết định kết nạp đồng chí vào Đảng!
Hoài vừa ngỡ ngàng, vừa vui sướng, lại vừa ngậm ngùi. Thế là nguyện vọng trở thành một Đảng viên, ước muốn được đi tuyến trước, sống cùng đồng bào trong cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc, để viết nên những bài báo, những tác phẩm văn chương, đã đến lúc trở thành hiện thực. Nhưng, sẽ phải xa em, xa rừng Chò ấm áp, thân thương...
Hà Nội, 02/12/2020 - PVL
Link nội dung: https://phamvietlong.vn/hoi-am-rung-cho-2675.html