ĐỘI NGŨ HẦU ĐỒNG VÀ QUÁ TRÌNH GÌN GIỮ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU

Tín ngưỡng thờ Mẫu đã trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử, nhưng vẫn được gìn giữ và phát huy bởi những người có công với nó. Có thể kể đến 3 nhóm chính đóng vai trò bảo tồn, phát huy tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là đội ngũ hầu đồng (vai trò chính là thanh đồng), các nhà khoa học, và các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong phần này, ta khám phá đội ngũ hầu đồng, lực lượng nòng cốt trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu.

bui-quoc-thi-1718927159.jpg
 

Đội ngũ hầu đồng là một tập hợp những cá nhân thực hành và tham gia các nghi thức hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Đội ngũ hầu đồng bao gồm bốn thành phần chính là thanh đồng, cung văn, thầy pháp, đồng phục. Đội ngũ hầu đồng là nhóm người quan trọng trong việc thực hành các nghi lễ và nghi thức tâm linh, đồng thời giữ gìn và phát triển truyền thống tín ngưỡng thờ Mẫu. Đội ngũ hầu đồng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy tín ngưỡng thờ Mẫu.

Theo thông tin từ Ban Tôn giáo Chính phủ, tín ngưỡng thờ Mẫu đã tồn tại trong xã hội phong kiến suốt nhiều thế kỷ, không chỉ đáp ứng nhu cầu của nông dân ở nông thôn mà còn của tầng lớp thương nhân ở đô thị. Trong thời kỳ quân chủ phong kiến, đặc biệt từ thời Lê, tư tưởng Nho giáo được đề cao, khiến thờ Mẫu bị xem là tín ngưỡng phi chính thống. Tuy nhiên, đến thời nhà Nguyễn, sau triều vua Đồng Khánh đến Bảo Đại, tín ngưỡng thờ Mẫu dần được tôn trọng và phục hưng. Trước năm 1975, miền Nam Việt Nam đã hình thành hai tổ chức: “Tiên Thiên Thánh Mẫu giáo Trung Việt” (thành lập năm 1955, trụ sở tại Huế) và “Hội Thánh Mẫu” (trụ sở tại Đà Lạt) theo Nghị định 1981/NĐ/PC ngày 30/9/1953 của Thủ hiến Trung Việt. Năm 1973, hai tổ chức này hợp nhất thành “Việt Nam Thánh Mẫu hội”. Từ sau năm 1975, Hội này tự giải thể và chỉ hoạt động xung quanh điện Huệ Nam (điện Hòn Chén, Thừa Thiên - Huế).

Từ thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, sự xâm lược của ngoại bang, đặc biệt là Pháp, vào Việt Nam, đã gây ra sự đàn áp, bóc lột, và phá hoại văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt. Năm 1885, thực dân Pháp chiếm đóng các đền thờ Mẫu ở Hà Nội, biến chúng thành các nhà thờ, trường học hoặc nhà ở cho quân đội. Năm 1911, họ ban hành luật cấm đoán để hạn chế và đàn áp các hoạt động yêu nước của người Việt, trong đó cấm mọi hoạt động tôn giáo, văn hóa, giáo dục có thể gây ảnh hưởng đến sự thống trị của thực dân hoặc có thể tạo ra tinh thần dân tộc. Năm 1939, thực dân Pháp ban hành luật cấm các hoạt động tôn giáo dân gian, trong đó có nghi lễ hầu đồng, một phần quan trọng của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Trong bối cảnh lịch sử đầy thách thức, những người theo tín ngưỡng thờ Mẫu tại Việt Nam đã phải đương đầu với hàng loạt khó khăn và rủi ro. Họ bị nhìn nhận một cách tiêu cực, bị cấm cản, truy lùng, áp bức, và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của họ bị xâm phạm. Mặc dù vậy, những người hành nghiệp hầu đồng không hề gục ngã trước áp lực, mà ngược lại, họ đã thể hiện lòng kiên cường thông qua các hoạt động đấu tranh để bảo vệ và phát triển tín ngưỡng của mình. Họ đã tham gia các phong trào khởi nghĩa và yêu nước như Cần Vương, Đông Du, Duy Tân, cũng như các tổ chức chính trị như Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Minh.

Đồng thời, họ đã sáng tạo ra nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật đặc sắc, từ thơ ca đến truyện ký, từ hát bội đến chèo, ca trù, hát văn, và nhạc cổ truyền, nhằm ca ngợi và quảng bá tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong điều kiện bị hạn chế, họ đã phải thực hành nghi lễ thờ cúng một cách bí mật, hoặc thông qua các hình thức ngụy trang như thờ Mẫu dưới danh nghĩa thờ Phật hoặc thờ Đạo. Họ cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh và đối kháng từ các tôn giáo khác như Phật giáo, Đạo giáo, Công giáo, Tin Lành, và Hồi giáo.

Bất chấp những khó khăn, đội ngũ hầu đồng đã kiên trì và nhẫn nại trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bao gồm nghi lễ hầu đồng, các lễ hội, và các di tích, đền chùa liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu. Qua đó, họ đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam, đồng thời gìn giữ và làm phong phú thêm cho văn hóa dân gian của đất nước.

Năm 1975, sau khi thống nhất đất nước, nhà nước Việt Nam đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm quản lý và kiểm soát các hoạt động tôn giáo, trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu. Các nghi lễ hầu đồng bị coi là mê tín dị đoan, vi phạm pháp luật và bị cấm hoặc hạn chế. Tuy vậy, những người có lòng tin vào Mẫu vẫn âm thầm giữ gìn tín ngưỡng thờ Mẫu. Họ cũng là những người truyền dạy cho thế hệ sau, để tín ngưỡng không bị mai một, mất dấu.

Năm 1986, sau khi đổi mới, nhà nước Việt Nam đã có những thay đổi tích cực trong chính sách đối với tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng thờ Mẫu được coi là một loại hình văn hóa truyền thống cần lưu giữ và phát huy.

Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành năm 2004, quy định về việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Từ đó, tín ngưỡng thờ Mẫu trở lại công khai và lực lượng tham gia ngày càng đông đảo.

Khi tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, những người hầu đồng đã trở thành đội ngũ tiên phong trong việc tái hiện và lan tỏa giá trị của tín ngưỡng này ra toàn quốc.

(Trích sách: Tín ngưỡng thờ Mẫu - Từ gôc nhìn văn hóa, NXB Dân trí, 2024)

Phạm Việt Long

Link nội dung: https://phamvietlong.vn/doi-ngu-hau-dong-va-qua-trinh-gin-giu-tin-nguong-tho-mau-2669.html